Phật giáo coi cầu nguyện là niềm tin tăng trưởng, nguyện lực - Phần 3

Đăng lúc: Thứ bảy - 23/11/2013 06:30 - Người đăng bài viết: Nhuận tâm bình
mục đích của sự cầu nguyện là mong muốn mang đến lợi ích thiết thực cho người sống tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, bình yên hạnh phúc; kẻ chết đều được tái sinh cảnh giới tốt đẹp.

   CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN

Cầu an: là cầu nguyện cho tất cả mọi người dù thân hay sơ được an vui, hạnh phúc, bình yên, an lành, vượt qua các tai ương bất hạnh trong đời. Vì vậy, tinh thần cầu an nhằm xoa dịu nỗi đau, thể hiện sự quan tâm, lo lắng và thương yêu, giúp đỡ cho nhân loại bằng tình người trong cuộc sống. Cầu an cũng nói lên tinh thần nhân bản đạo đức của người Phật tử, khi đứng trước hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật, nhằm làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh cho tha nhân.

Cầu siêu: là cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, người thân đã qua đời được siêu thoát, cầu cho các hương linh, vong linh, các oan hồn uổng tử, được siêu thoát về các cõi an lành.  Như vậy, tinh thần cầu siêu là biểu lộ sự quan tâm, lo lắng, sự thương yêu, giúp đỡ cho người thân và cộng đồng xã hội. Sự quan tâm, thương tưởng đối với người đã chết không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện, là mong mỏi, là mong muốn cho người đó được tái sinh và an vui chỗ mới tốt đẹp.

Cầu sám hối: là cầu nguyện cho những lỗi lầm cố ý hay vô tình từ vô thủy kiếp đến nay, ta đã không biết nên làm tổn hại mình, người và chúng sinh. Ta nguyện cầu không cho chúng tái phạm và bày tỏ sự ăn năn, hối hận lỗi lầm, mong sự chứng giám và tha thứ của các Bồ tát, các bậc hiền Thánh và tất cả chư Phật về những gì mình đã gây khổ đau cho nhân loại, muôn loài. Cầu nguyện sám hối là nhu cầu cần thiết nói lên sự mong muốn phục thiện của bản thân, nhằm phát huy nhân cách đạo đức, từ bi và trí tuệ.

Cầu dứt ác làm lành: là cầu nguyện cho mình và người được phát khởi tín tâm thiện ích với tinh vô ngã, vị tha, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, để giúp ta vượt qua dòng đời nghiệt ngã với muôn vàn khổ đau, mà thành tựu được mục tiêu giác ngộ, giải thoát, trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sinh. Cầu nguyện dứt ác, làm lành là nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống, nói lên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng sự chia vui sớt khổ, nhằm làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh cho mọi người.

Nói tóm lại, mục đích của sự cầu nguyện là mong muốn mang đến lợi ích thiết thực cho người sống tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, bình yên hạnh phúc; kẻ chết đều được tái sinh cảnh giới tốt đẹp.

Tác dụng của cầu siêu: Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho thần thức người đã mất được nhẹ nhàng, siêu thoát về các cõi lành. Trong kinh Địa Tạng có nói rõ tác dụng của sự cầu nguyện cho người chết rằng: Trong 7 phần công đức, người cầu siêu được hưởng sáu phần, người chết chỉ hưởng được một phần mà thôi. Tại sao người chết chỉ hưởng được một phần? Điều này dễ hiểu thôi, vì khi tụng kinh để cầu siêu, người tụng kinh phải tập trung cao độ để lắng tâm trong sạch, nên ngay khi đó ba nghiệp thân, miệng, ý được thanh tịnh; miệng đọc lời kinh, tai lắng nghe và ý chỉ chú tâm vào lời kinh; do đó, phát sinh năng lực công đức trước nhất là cho người tụng, rồi những người tụng đó sử dụng năng lượng công đức ấy để hướng đến người đã chết. Vì vậy, người mất chỉ nhận được một phần tâm linh thanh tịnh ấy mà thôi.

Như trường hợp của Tôn giả Mục Kiền Liên, sau khi xuất gia làm đệ tử Phật, nhờ siêng năng, tinh cần tu tập, nên Tôn giả đã chứng quả giác ngộ giải thoát. Vì nhớ thương mẹ mình sau khi chết không biết tái sinh nơi đâu, Tôn giả vận dụng thần thông tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng thấy mẹ đang bị đọa trong loài quỷ đói, thân thể tiều tụy, ốm o gầy mòn, đói khát, vật vờ, trông rất thảm thương.

Động lòng thương xót mẹ, Tôn giả trở lại trần gian xin được một bát cơm, hai tay cung kính dâng lên mẹ. Bà Thanh Đề thấy bát cơm mừng quá vì đói khát lâu ngày, nên vội vàng lấy một tay che bát cơm lại, sợ các quỷ khác thấy xin ăn, tay còn lại bà bốc cơm ăn. Nhưng nghiệt ngã thay, bỗng dưng cơm hóa thành lửa, bà ăn không được, trong lòng thèm khát, khổ sở vô cùng, làm cho Tôn giả xúc động, nghẹn ngào mà hai hàng lệ rơi. Bát cơm của Tôn giả dâng lên cho mẹ bằng tất cả tấm lòng, tưởng làm no lòng mẹ, ngờ đâu cơm hóa thành lửa ăn không được, nên bà phải chịu khổ sở, đớn đau vô cùng.

Bà Thanh Đề lúc còn sống, vì không tín kinh Tam bảo, nên lúc nào cũng tham lam, bỏn sẻn, keo kiết, ích kỷ, không biết bố thí hay giúp đỡ cho ai, nên sau khi chết phải bị đọa vào loài quỷ đói. Nhìn cảnh mẹ đói khát, khổ sở, mà không có cách nào giúp được, Tôn giả đành thương xót, ngậm ngùi trở về bạch Phật tìm cách cứu mẹ.

Phật dạy, “nhân mùa an cư kiết hạ và lễ tự tứ của chư Tăng, ông hãy phát tâm cúng dường trai Tăng, nhờ công đức tu hành của đại chúng, vì đa số quý thầy tâm thanh tịnh, trong sáng, nên có thể làm cho mẹ ông thức tỉnh, buông xả tâm ích kỷ nhỏ nhoi, mà được thác sinh về cõi an lành”.

Tôn giả nghe lời Phật dạy, trở về quê nhà, vận động gia đình, người thân phát tâm tịnh tài, tịnh vật cúng dường trai tăng; nhờ vậy, mẹ Ngài thoát khỏi quỷ đói, sinh về cảnh giới an lành. Nhìn từ góc độ thực tế cuộc đời loài quỷ đói cũng có trong loài người, người hay thiếu trước hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, chết đói chết khát, bị gông cùm xiềng xích.

Người giàu có chứa nhiều của cải, để cho mục nát, hư hại, mà không dám đem ra giúp người, cứu vật, hoặc đã giàu rồi mà còn tham lam tìm cách vơ vét về cho riêng mình. Tâm ham muốn và thèm khát quá đáng cũng là loài quỷ đói. Chúng ta làm người, hãy nên chiêm nghiệm, suy xét kỹ chỗ này. Thà rằng một miếng khi đói bằng một gói khi no, cúng dường, hồi hướng công đức cho những người đã mất, sẽ được lợi ích lớn lao như vậy.

Tại sao bà Thanh Đề được siêu thoát nhờ lực thanh tịnh của chư Tăng? Ở đây, có hai điểm chúng ta cần phải lưu ý và suy xét. Thứ nhất, nhờ sức thanh tịnh của chư tăng hướng tâm về bà, làm bà thức tỉnh, biết nhân dính mắc, tham chấp, hại người, hại vật là khổ đau; do đó, bà liền được sinh về cõi an lành. Trường hợp thứ hai, nếu trong nhiều đời và hiện tại, bà không gieo nhân phước đức, thì dù có chư Phật hộ trì cũng không thể nào cứu được bà.

Như trong kinh đã nói, nếu một người tạo mười nghiệp ác như giết hại, trộm cướp, lường gạt, tà dâm, phá hoại hạnh phúc gia cang của người khác, nói dối hại người, nói lời mắng chửi, nói lời mê hoặc dụ dỗ, nói lời đòn xóc hai đầu, tham lam quá đáng, nóng giận đánh đập và cuối cùng là si mê, thì ví như tảng đá lớn quăng xuống nước sâu, dù có ngàn người cầu cho nó nổi lên vẫn không được.

Điều chính yếu của sự cầu nguyện trong đạo Phật là sự chuyển hoá và thay đổi nghiệp lực. Nếu mình đã gây quá nhiều ác nghiệp, thì việc cầu nguyện là vô ích. Cầu nguyện theo cách thức chuyển ác thành thiện, thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến khích và chấp nhận, nhằm giúp cho những người chưa đủ niềm tin về nhân quả và chính mình, để họ có chỗ hướng tâm mà từng bước quay về con đường thiện lành tốt đẹp.

Cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, người thân, còn nói lên ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và đền ơn đối với các liệt vị tiền nhân đã sinh ra và nuôi dưỡng ta nên người. Chim có tổ, người có tông, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn là chân lý đạo đức làm người. Con người nếu không biết rõ cội nguồn, giống như cây bị bứng gốc rễ. Cho nên, cầu nguyện, cúng bái, tưởng nhớ ông bà cha mẹ, bà con thân quyến, nói lên sự kết nối yêu thương, mong cho họ được siêu thoát là bài học đạo lý hiếu thảo, thể hiện sự biết ơn và đền ơn, đã ăn sâu vào trong tâm thức của con người Việt Nam.

Tuy nhiên, theo lời dạy của Thế tôn trong kinh cúng thí người mất, chỉ khi nào cha mẹ người thân bị đọa vào cảnh giới quỷ đói, thì sự cúng thí đó mới được tương xứng và người đó được thọ nhận thức ăn cúng thí. Ngoài ra, những người nào sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục, súc sinh, người, thần Tu La và chư thiên, thì không nhận được các thức ăn đó. Chính vì vậy, trong kinh Địa tạng nói người mất chỉ hưởng một phần là lý do đó, còn chúng sinh trong các loài khác, đã có thức ăn phù hợp với hoàn cảnh tương xứng rồi.

Sự cầu siêu chỉ mang tính cách biểu tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ơn đối với người đã chết; về phương diện đạo đức, nhằm nhắc người đã mất không bám víu vào gia đình, vợ con, tiền bạc, tài sản, để dễ dàng ra đi và tái sinh cõi an lành. Cúng bái, tổ tiên ông bà, cha mẹ theo tinh thần biết ơn và đền ơn, thì người sống và kẻ mất đều được lợi lạc, là nét đẹp văn hóa tâm linh của người cư sĩ tại gia và đạo pháp dân tộc.

Nói tóm lại, đối với nghi thức cầu siêu, cũng nên giản đơn mà trang trọng, tránh mọi sự rộn ràng không cần thiết, có thể làm cho vong linh người thân dao động, luyến ái, hoặc tức giận nên khó siêu sinh Tịnh độ, hoặc tái sinh vào các cõi an lành. Nếu có thể, hạn chế sự khóc lóc làm ảnh hưởng đến người chết, không nên tổ chức nhạc kèn trống, hoặc tất cả những hình thức phô trương lãng phí. Lại càng không nên mở tiệc tùng, giết trâu bò, heo gà, uống rượu, cờ bạc sáng đêm, rồi nói rằng “thức để canh đám ma”.

Thay vào tất cả những hình thức không có lợi ích thiết thực, chúng ta nên mời chư Tăng đến khai thị, nhắc nhở, khuyên nhủ, niệm Phật, tụng kinh, làm nhiều Phật sự thiện ích, như phóng sinh, bố thí, cúng dường Tam bảo và bố thí giúp đỡ người bệnh tật già yếu, nhằm chia sẻ và nâng đỡ để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Cúng thí cầu nguyện như vậy là thể hiện tình người trong cuộc sống, bằng sự kết nối yêu thương; kẻ âm, người dương đều được lợi ích.

Tác dụng của cầu an: Cầu nguyện cho ta và người được bình yên hạnh phúc là thể hiện tấm lòng thương yêu bình đẳng, bằng sự kết nối sẻ chia và nâng đỡ. Nhưng sự cầu nguyện như vậy có hiệu quả thiết thực hay không? Khi ta có niềm tin và ước muốn chân thành vì mọi người, thì ta sẽ có sức mạnh vô biên. Sức mạnh tinh thần đó là sự nhiệm mầu của tâm linh; nhờ vậy, ta chuyển năng lượng đó làm ảnh hưởng đến người ấy. Cầu an có nghĩa là cầu cho một người nào đó được tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ và sống bình yên, hạnh phúc.

Như vậy, cầu an là sự mong muốn, là ước vọng được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc. Để được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm, mỗi người Phật tử phải tự rèn luyện đời sống đạo đức và trí tuệ, bằng cách giữ gìn năm giới, mở rộng tấm lòng nhân ái, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ mọi người và sẵn sàng chia vui, sớt khổ với tinh thần vô ngã, vị tha.

Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hoá đến các sinh vật. Các vị thiền sư có thể cảm hoá các loài thú dữ, ngay cả loài cỏ cây nếu được thương yêu, chúng cũng tươi tốt hơn. Các nhà khoa học đã làm nhiều thí nghiệm để chứng minh cho sức mạnh tinh thần này. Khi một người hoặc nhiều người cùng nhất tâm cầu nguyện, luồng năng lượng tâm linh ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh. Trong đời sống hằng ngày, ta thường gặp nhau và chúc phúc cho nhau được mạnh khoẻ, bình an. Nếu những lời chúc ấy có chú tâm, có nhất tâm và định tĩnh, nó sẽ tạo ra nguồn năng lượng lành mạnh để giúp ích cho người được chúc cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng.

Trong những hoàn cảnh đặc biệt, như gia đình có người thân bệnh hoạn, ốm đau, hay có những sự việc khó khăn, đặc biệt, thì nhu cầu ước muốn và cầu nguyện nhằm mong mỏi cho người thân được tai qua nạn khỏi, tránh được tai họa hiện tại là điều cần thiết đối với mọi người.

Như chúng ta đã biết, Phật giáo không chấp nhận có một cái gì cố định do đấng sáng tạo hoặc thần linh, thượng đế hay ông trời ban phước, giáng họa. Do đó, muốn đạt được mục đích cầu an thực sự, chúng ta cần phải chú tâm mạnh mẽ hướng về người ấy với tất cả tình thương. Cầu an như vậy, không có gì là mâu thuẫn đối với đạo lý nhân quả của Phật giáo. Tai nạn đến với người thân, gia đình không phải là ngẫu nhiên hay đương nhiên khi không mà có.

Chính sức mạnh của nghiệp ác quá khứ đã đem lại tai nạn cho gia đình, người thân trong hiện tại. Thế nhưng, các việc làm hiện nay như giảng nói chánh pháp, từ thiện giúp người nghèo khổ, bất hạnh, phóng sinh, làm lễ cầu an, đều là những nghiệp thiện có sức mạnh chuyển hóa nghiệp xấu ác và làm cho thế nhân ý thức được mà tin sâu nhân quả.

Chúng ta nên hiểu rằng, đạo Phật không chấp nhận có một đấng thần linh tối cao, sáng tạo ra thế giới, vũ trụ này, để rồi chấp nhận số phận đã an bài; nhưng đạo Phật thừa nhận có nhiều vị Bồ tát làm thiện và tu chứng, là những bậc hiền Thánh đã giác ngộ và giải thoát, thường xuyên gia hộ tất cả chúng sinh, hướng dẫn mọi người bỏ ác làm lành để cùng nhau chia vui, sớt khổ theo tinh thần của Bồ tát Quán Thế Âm, phát tâm đi vào đời vì lợi ích chúng sinh.

Lễ cầu an, hay cầu siêu cũng có thể tổ chức ở chùa, những nơi có cảnh trí yên tĩnh, càng làm cho nội dung của các nghi thức thêm phần hiệu quả.

Cầu nguyện cho người khác được bình an là thể hiện tinh thần thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau với tấm lòng từ bi, trí tuệ và vị tha. Cầu an đúng nghĩa theo tinh thần đạo Phật là chuyển hoá nghiệp lực xấu bằng việc làm tốt đẹp, an ủi sẻ chia. Cho nên, cầu nguyện chỉ là mặt tiêu cực, còn mặt tích cực thì ta phải làm bằng những hành động thiết thực như bố thí, giúp đỡ, chia sẻ, phóng sanh, chăm sóc và động viên, an ủi người bệnh.

Chúng ta muốn được sức khỏe và sống an lạc hạnh phúc, trước tiên ta phải biết siêng năng làm các việc thiện lành, tốt đẹp, sống tiết chế, ngủ nghỉ ăn uống có chừng mực, điều độ và không vui chơi hoan lạc quá sức. Ta thể hiện lòng từ bi, yêu thương, bình đẳng bằng cách không giết hại, trộm cướp, lường gạt, sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người và không dùng rượu say sưa, cùng các chất độc hại như xì ke, ma túy. Muốn vậy, ta phải an trú trong giờ phút hiện tại, lấy chánh niệm tỉnh giác làm phương châm của cuộc sống. Ai sống được như vậy, sự an lạc sẽ có mặt ngay tại đây và bây giờ, thì sự cầu nguyện chỉ là phụ mà thôi. Tuy nhiên, sự cầu nguyện vẫn không thể thiếu trong cộng đồng xã hội, vì số đông con người chưa có đủ niềm tin về nhân quả và còn quá nhiều lo âu, sợ hãi về những bất hạnh trong đời.

Cầu nguyện không phải muốn gì được đó, không phải là chúng ta xin ơn trên giúp cho mình các yêu cầu bất thiện, hay sự hy vọng và mong muốn quá đáng của mình. Cầu nguyện về mặt tâm lý, giải toả các ức chế nội tại, hoặc tình trạng bức xúc cao độ, hay sự tuyệt vọng quá mức, dẫn đến không còn lối thoát; cầu nguyện có thể làm giảm bớt các áp lực căng thẳng, nặng nề ấy. Mặt khác, cầu nguyện là bày tỏ những hy vọng thay đổi, nhằm có đời sống tốt hơn, tạo thêm sinh lực và niềm tin cho con người vốn gặp nhiều đau khổ, bất hạnh.

Có một chàng trai nọ đang buồn chán vì công việc và cuộc sống bấy lâu nay, trong lòng luôn nặng trĩu những nỗi khổ, niềm đau, đang miên man với dòng suy tư tuyệt vọng. Bỗng dưng, có một chiếc xe tải dừng lại, anh tài xế lật đật bước xuống xe, cầm tấm ảnh một chú bé khoảng năm sáu tuổi, giơ lên và nói rằng, “con tôi đang bệnh nặng”. Chàng trai nọ tưởng ông ta cần xin tiền, liền móc túi ra định giúp đỡ, nhưng ông ta bảo, “tôi chỉ mong anh cầu nguyện cho con tôi mau lành bệnh”. Nói xong, anh ta lên xe và chạy mất hút.

Thái độ của người lái xe làm cho chàng trai liền thức tỉnh và bừng lên một tia hy vọng. Cuộc sống này luôn có niềm vui và nỗi buồn, vấp ngã và đứng lên, thành công và thất bại… Con người chúng ta đều có ưu điểm và khuyết điểm, cuộc sống này luôn có hai mặt song hành với nhau. Từ đó, chàng trai phấn chấn hơn, nên cảm thấy trong lòng an ổn, nhẹ nhàng, không còn đau thương, buồn khổ như trước nữa.

Khi nói đến cầu nguyện, chúng ta thường nghĩ là phải nhờ đến tha lực của chư Phật, hiền Thánh Tăng; nhưng cầu nguyện trong đạo Phật nhằm hỗ trợ niềm tin và tinh thần, chính yếu vẫn là tự lực nhiều hơn là tha lực. Cho nên, đức Lục tổ nói, “khi mê thì thầy độ, khi ngộ thì tự độ”. Tại sao có người cầu nguyện linh ứng, có người lại không? Điều đó tuỳ thuộc vào lòng thành tâm, tự lực vẫn nhiều hơn tha lực, và người đó có biết gieo trồng phước đức trong hiện tại và quá khứ hay không.

Nói tóm lại, nội dung chủ yếu của nghi thức cầu an, là người đương sự và cả nhà thành tâm sám hối, bỏ ác làm lành, làm nhiều Phật sự như phóng sinh, từ thiện, bố thí, cúng dường Tam bảo… để hồi hướng công đức ấy cho người thân mau tai qua nạn khỏi. Đồng thời, chúng ta mời chư Tăng đến tiến hành nghi thức cầu an đúng pháp, khai thị, nhắc nhở, khuyên nhủ, tụng kinh, niệm Phật. Nghi thức nên đơn giản, gọn nhẹ và có ý nghĩa thiết thực. Điều quan trọng là người được cầu và gia đình người thân nên thành tâm sám hối, bỏ ác, làm lành.

Tác giả bài viết: Phong Trần Cuồng Nhân
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Thăm dò ý kiến

Nhờ đâu bạn biết đến website phatgiaoaluoi.com?

Sự giới thiệu của bạn bè

Tình cờ tìm gặp trên google

Tình cờ tìm gặp trên Yahoo search

Tình cờ tìm gặp trên facebook

Công cụ tìm kiếm khác

Giới thiệu

Chào mừng quý vị ghé thăm website http://phatgiaoaluoi.com

   GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HUYỆN A LƯỚI BAN TRỊ SỰ Văn phòng: Niệm Phật đường Sơn Nguyên, 32 Giải phóng A So, thị trấn A Lưới, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế Điện thoại: 090 501 2992 - Email: phatgiaoaluoi@gmail.com Website: www.phatgiaoaluoi.com LỜI NÓI ĐẦU Nam mô Bổn sư Thích...

Thống kê

  • Đang truy cập: 441
  • Khách viếng thăm: 432
  • Máy chủ tìm kiếm: 9
  • Hôm nay: 62073
  • Tháng hiện tại: 2152094
  • Tổng lượt truy cập: 91043667
Xem bản: Desktop | Mobile

Xin ghi rõ nguồn chính khi trích dẫn thông tin từ website này.

Ngày thành lập : 12-09-2012