1. La Hán Tọa Lộc - Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja)
2. La Hán Khánh Hỷ - Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa)
3. La Hán Cử Bát - Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja)
4. La Hán Thác Tháp - Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda)
5. La Hán Tĩnh Tọa - Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula)
6. La Hán Quá Giang - Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra)
7. La Hán Kỵ Tượng - Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica),
8. La Hán Tiếu Sư - Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra)
9. La Hán Khai Tâm - Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka)
10. La Hán Thám Thủ - Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka)
11. La Hán Trầm Tư - La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula)
12. La Hán Khoái Nhĩ - Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên
13. La Hán Bố Đại - Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada)
14. La Hán Ba Tiêu - Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin)
15. La Hán Trường Mi - A-thị-đa 阿氏多 (Ajita)
16. La Hán Kháng Môn - Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka)
17. La Hán Hàng Long - Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra)
18. La Hán Phục Hổ - Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), TẦN ĐẦU LA
-------------------------------------------
Nhận dạng ra Ngài, các vệ sĩ trở vào bẩm trình với vua. Nhà vua bèn đích thân ra nghinh tiếp Ngài, và nói rằng Ngài có thể trở về làm quan như ưa nếu muốn. Ngài từ chối và nói rằng Ngài trở về để khuyến khích nhà vua xuất gia. Đàm luận một hồi lâu và đưa ra những ví dụ về sự tạo nghiệp của xác thân cũng như lòng tham, cuối cùng nhà vua nghe theo Ngài, nhường ngôi cho thái tử, mà xuất gia.
Ngài là một trong những đại đệ tử của Phật. Ngài có âm thanh hùng hồn như sư tử rống, dẹp tan luận nghị ngoại đạo, xiển dương chánh pháp. Tuy nhiên, yếu điểm của Ngài là hiển hiện những thần thông trước tất cả mọi người, và đôi khi với những mục đích không lợi lạc. Theo Kinh Tạp A Hàm 23, lần nọ con gái ông trưởng giả Cấp Cô Độc thỉnh Phật và chư Thánh Tăng đến xứ Phú Lâu Na Bạt Đà Na thọ trai. Các vị Thánh Tăng đều dùng thần thông bay trên hư không mà đến, còn Tôn Giả thì dùng sức thần thông hiệp các núi lớn lại đến thọ thỉnh, nên bị đức Thế Tôn quở phạt ở lại đời để hộ trì chánh Pháp, không được nhập Niết Bàn. Lần khác, theo những sự ghi lại trong Kinh tạng Pali và tạng Luật, để thị hiện thần thông, Ngài bay lên hư không, lấy một bình bát bằng gỗ chiên đàn trên một cột cây cao, rồi bay lơ lững trên đầu của những người kính mộ một hồi lâu. Việc này khiến đức Phật quở trách Ngài, và cấm dùng bình bát bằng gỗ trầm hương. Vào dịp đó, đức Phật quở phạt Ngài rằng không được nhập Niết Bàn mà phải ở lại cõi Ta Bà để hộ trì Phật pháp cho đến khi Phật Di Lặc ra đời. Tuy nhiên, đôi khi Ngài cũng thị hiện thần thông vì mục đích tốt, như dùng thần thông để cảm hóa một bà chưa tin chánh Pháp.
Ngài trụ thế từ thời đức Phật còn tại thế gian, và đã nhiều lần hiển hiện khuyến tấn những Phật tử thuần thành vì đạo. Ở Ấn Độ đã từng có phong tục cúng dường chư Tăng và thỉnh mời Ngài. Tuy không thể thấy Ngài, nhưng một cánh cửa được dành riêng cho Ngài vào. Sự thị hiện của Ngài chỉ được biết qua sự hiển hiện của những bông hoa hay tấm thảm dành riêng cho Ngài. Khi vua A Dục cung thỉnh chư Thánh Tăng 60,000 vị, Ngài đang ở trên ngọn núi Kiền Đà Ma Lợi (Gandhamali hay Gandhamadana). Được cung thỉnh nhập vào Thánh chúng, Ngài bay như hạc đến dự trong Thánh chúng và được đề cử làm chủ tọa vì là bậc trưởng thượng. Lúc ấy, Ngài là một vị thánh tăng trưởng lão; vì lông tóc dài bạc phơ, Ngài phải cầm giữ để mắt thấy rõ ràng. Phật tử Trung Hoa thường biết đến Ngài qua tên “Trường Mi Tăng”; nghĩa là vị Thánh Tăng có lông mi dài. Vào đời Đông Tấn, Ngài thị hiện sang Trung Quốc, ấn chứng sự hoằng Pháp luật học của Luật Sư Đạo Tuyên. Từ đời Đường về sau, các Trai Đường (phòng ăn) đều an trí tượng Ngài. Đại sư Thiền Nguyệt Quán Hưu đời Đường, họa tượng Ngài ngồi theo thế ky tọa, trên sườn núi, tay trái cầm gậy, tay phải duỗi ra, tựa vào vách núi, trên đầu gối có quyển kinh, mắt nhìn về phía trước. Ở Nhật Bổn, thánh tượng của Ngài được an trí ở hành lang trước tự viện, và có tín ngưỡng xoa vuốt tượng Ngài để cầu hết bịnh, gọi là Phủ Phật.
Tần Đầu Lô Phả La Đọa hán dịch nghĩa là Lợi Căn Bất Động, còn tiếng Tây Tạng dịch nghĩa là Ứng Cúng. Tuy nhiên, danh từ đó có thể được dịch âm tiếng hán “Tần Đầu”, do có liên hệ đến tên của một ngôi làng Kosala vào thời đức Phật.
2. La Hán Khánh Hỷ - Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa)
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
CA NẶC CA PHẠT SA
Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấây một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.
Bằng cách giảng dạy chân thật, Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân sinh.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).
12. La Hán Khoái Nhĩ - Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên
Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay Long Quân: A La Hán Ngoái Ta, còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận.
Ngài sống vào cuối thế kỷ thứ hai trước Tây lịc. Ngài sanh vào dòng Bà La Môn ở thôn Yết Đăng Yết La (Kajangala) miền Trung Ấn. Ban đầu, Ngài theo học giáo nghĩa Phệ Đà, nhưng cảm nhận sâu sắc rằng rất ít thấy những điều thiện trong giáo nghĩa Bà La Môn, nên đến cầu học với tôn giả Lâu Hán (Rohana), rồi xuất gia, tu học luận tạng và 7 bộ A Tỳ Đàm,
Đương thời Ngài đến xứ Xá Kiệt (Sagala), trụ trì chùa Tiết Để Ca gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.
NA GIÀ TÊ NA
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.
14. La Hán Ba Tiêu - Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin)
Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán, cây chuối, La-hán Ba Tiêu.
Phạt-na-bà-tư
Nếu người trong nhà muốn cúng dường thức ăn cho ông, thì họ sẽ bước ra”. Cây tích trượng về sau có những vòng sắt, và khi gióng xuống đất sẽ vang tiếng loảng xoảng. Cây tích trượng là vật biểu trưng cho Ngài.
Theo một truyền thuyết khác, Ngài được gọi là Tiểu Lộ Biên Sanh, vì được sanh ra ở bên vệ đường. Người anh của Ngài là Đại Lộ Biên Sanh. Bẩm tánh Ngài đần độn ngu dốt vì nghiệp xấu, nên không thể nhớ nổi một bài kệ trong những giáo pháp đã được dạy. Do đó, người đương thời gọi Ngài là Ngu Lộ, nhưng đức Phật vẫn rất thương mến và kiên nhẫn dạy Ngài. Lần nọ, có một ông vua thỉnh Phật và chư tăng đến dùng điểm tâm, nhưng không mời Ngài. Khi biết rõ sự tình, đức Phật không ngồi xuống dùng trai cho đến khi ngài Châu Lợi Bàn Đà được mời tới thọ trai. Khi Ngài bị người anh, ngài Đại Lộ Biên Sanh, đuổi ra khỏi tăng đoàn vì không thể học được gì, đức Phật dẫn Ngài trở lại, an ủi, và dạy phải tụng đọc câu “Chổi quét”. Nhờ niệm nhớ hai chữ đó, nên dần dà Ngài trực nhận rằng phải quét hết tất cả sự cấu uế trên thế gian bằng cây chổi giáo pháp của đức Phật, rồi chẳng bao lâu Ngài chứng quả A La Hán. Sau đó, Ngài dùng thần thông thị hiện các thân hình, bay lên hư không, biến ra 500 con trâu và cỡi lên chúng, cũng như thuyết pháp cho lục quần tỳ kheo ni.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục.
a la hán, phiên âm, phiền não, chúng nó, hung tợn, gốc ngọn, gọi là, đồng nghĩa, niết bàn, nghĩa là, trạng thái, tâm lý, luân hồi, xứng đáng, như thế, tĩnh tọa, quá giang, khai tâm, ba tiêu, xuất thân, quyết định
Mã an toàn:
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HUYỆN A LƯỚI BAN TRỊ SỰ Văn phòng: Niệm Phật đường Sơn Nguyên, 32 Giải phóng A So, thị trấn A Lưới, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế Điện thoại: 090 501 2992 - Email: phatgiaoaluoi@gmail.com Website: www.phatgiaoaluoi.com LỜI NÓI ĐẦU Nam mô Bổn sư Thích...
Xin ghi rõ nguồn chính khi trích dẫn thông tin từ website này.
Ngày thành lập : 12-09-2012
Ý kiến bạn đọc