Ý nghĩa 18 vị La Hán

Đăng lúc: Thứ ba - 28/10/2014 09:49 - Người đăng bài viết: Ban Biên Tập
A la hán chỉ là phiên âm từ tiếng Phạn Arahat. Chữ Arahat hay A la hán có 3 nghĩa: Sát tặc, Vô sanh và Ứng cúng.

a) Sát tặc là giết sạch hết giặc phiền não trong tâm. Bọn giặc phiền não chúng nó hung tợn dữ dằn lắm. Những thứ phiền não gốc ngọn gì, các Ngài cũng đều giết sạch hết, nên gọi là sát tặc. 

b) Vô sanh đồng nghĩa với Niết bàn. Nghĩa là các Ngài đã đạt được một trạng thái tâm lý yên tịnh không còn sanh diệt nữa. Nói rõ, là các Ngài không còn sanh tử luân hồi.

c) Ứng cúng là các Ngài thật xứng đáng cho trời người cúng dường. A la Hán có 3 nghĩa như thế.


 

1. La Hán Tọa Lộc - Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja)

2. La Hán Khánh Hỷ - Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa)

3. La Hán Cử Bát - Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja)

4. La Hán Thác Tháp - Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda)

5. La Hán Tĩnh Tọa - Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula)

6. La Hán Quá Giang - Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra)

7. La Hán Kỵ Tượng - Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica),

8. La Hán Tiếu Sư - Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra)

9. La Hán Khai Tâm - Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka)

10. La Hán Thám Thủ - Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka)

11. La Hán Trầm Tư - La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula)

12. La Hán Khoái Nhĩ - Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên

13. La Hán Bố Đại - Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada)

14. La Hán Ba Tiêu - Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin)

15. La Hán Trường Mi - A-thị-đa 阿氏多 (Ajita)

16. La Hán Kháng Môn - Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka)

17. La Hán Hàng Long - Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra)

18. La Hán Phục Hổ - Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), TẦN ĐẦU LA

-------------------------------------------

1. La Hán Tọa Lộc - A THỊ ĐA, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja)

Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja), Vị A La Hán cỡi nai. xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài chợt quyết định xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.
 


TÂN ĐẦU LÔ PHẢ LA ĐOẠ
 

Nhận dạng ra Ngài, các vệ sĩ trở vào bẩm trình với vua. Nhà vua bèn đích thân ra nghinh tiếp Ngài, và nói rằng Ngài có thể trở về làm quan như ưa nếu muốn.  Ngài từ chối và nói rằng Ngài trở về để khuyến khích nhà vua xuất gia. Đàm luận một hồi lâu và đưa ra những ví dụ về sự tạo nghiệp của xác thân cũng như lòng tham, cuối cùng nhà vua nghe theo Ngài, nhường ngôi cho thái tử, mà xuất gia.

Ngài là một trong những đại đệ tử của Phật. Ngài có âm thanh hùng hồn như sư tử rống, dẹp tan luận nghị ngoại đạo, xiển dương chánh pháp. Tuy nhiên, yếu điểm của Ngài là hiển hiện những thần thông trước tất cả mọi người, và đôi khi với những mục đích không lợi lạc. Theo Kinh Tạp A Hàm 23, lần nọ con gái ông trưởng giả Cấp Cô Độc thỉnh Phật và chư Thánh Tăng đến xứ Phú Lâu Na Bạt Đà Na thọ trai. Các vị Thánh Tăng đều dùng thần thông bay trên hư không mà đến, còn Tôn Giả thì dùng sức thần thông hiệp các núi lớn lại đến thọ thỉnh, nên bị đức Thế Tôn quở phạt ở lại đời để hộ trì chánh Pháp, không được nhập Niết Bàn. Lần khác, theo những sự ghi lại trong Kinh tạng Pali và tạng Luật, để thị hiện thần thông, Ngài bay lên hư không, lấy một bình bát bằng gỗ chiên đàn trên một cột cây cao, rồi bay lơ lững trên đầu của những người kính mộ một hồi lâu. Việc này khiến đức Phật quở trách Ngài, và cấm dùng bình bát bằng gỗ trầm hương. Vào dịp đó, đức Phật quở phạt Ngài rằng không được nhập Niết Bàn mà phải ở lại cõi Ta Bà để hộ trì Phật pháp cho đến khi Phật Di Lặc ra đời. Tuy nhiên, đôi khi Ngài cũng thị hiện thần thông vì mục đích tốt, như dùng thần thông để cảm hóa một bà chưa tin chánh Pháp. 

Ngài trụ thế từ thời đức Phật còn tại thế gian, và đã nhiều lần hiển hiện khuyến tấn những Phật tử thuần thành vì đạo. Ở Ấn Độ đã từng có phong tục cúng dường chư Tăng và thỉnh mời Ngài. Tuy không thể thấy Ngài, nhưng một cánh cửa được dành riêng cho Ngài vào. Sự thị hiện của Ngài chỉ được biết qua sự hiển hiện của những bông hoa hay tấm thảm dành riêng cho Ngài. Khi vua A Dục cung thỉnh chư Thánh Tăng 60,000 vị, Ngài đang ở trên ngọn núi Kiền Đà Ma Lợi (Gandhamali hay Gandhamadana). Được cung thỉnh nhập vào Thánh chúng, Ngài bay như hạc đến dự trong Thánh chúng và được đề cử làm chủ tọa vì là bậc trưởng thượng. Lúc ấy, Ngài là một vị thánh tăng trưởng lão; vì lông tóc dài bạc phơ, Ngài phải cầm giữ để mắt thấy rõ ràng. Phật tử Trung Hoa thường biết đến Ngài qua tên “Trường Mi Tăng”; nghĩa là vị Thánh Tăng có lông mi dài. Vào đời Đông Tấn, Ngài thị hiện sang Trung Quốc, ấn chứng sự hoằng Pháp luật học của Luật Sư Đạo Tuyên. Từ đời Đường về sau, các Trai Đường (phòng ăn) đều an trí tượng Ngài. Đại sư Thiền Nguyệt Quán Hưu đời Đường, họa tượng Ngài ngồi theo thế ky tọa, trên sườn núi, tay trái cầm gậy, tay phải duỗi ra, tựa vào vách núi, trên đầu gối có quyển kinh, mắt nhìn về phía trước. Ở Nhật Bổn, thánh tượng của Ngài được an trí ở hành lang trước tự viện, và có tín ngưỡng xoa vuốt tượng Ngài để cầu hết bịnh, gọi là Phủ Phật. 

Tần Đầu Lô Phả La Đọa hán dịch nghĩa là Lợi Căn Bất Động, còn tiếng Tây Tạng dịch nghĩa là Ứng Cúng. Tuy nhiên, danh từ đó có thể được dịch âm tiếng hán “Tần Đầu”, do có liên hệ đến tên của một ngôi làng Kosala vào thời đức Phật. 

Nhân một hôm Tôn giả dùng thần thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của một trưởng giả, bị Phật quở trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận mục đích tu học Phật pháp. Phật dạy Tôn giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân gian để làm phước điền cho chúng sanh, vì thế trong các pháp hội Tôn giả thường làm bậc ứng cúng. Một lần ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ dành cho khách quý mà ăn uống vui vẻ. Ăn xong Ngài tuyên bố Ngài là Tân-đầu-lô. Dưới thời vua A-dục và vua Lương Võ Đế, Ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm tăng trưởng lòng tin. Thời Đông Tấn ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển thường lo buồn vì sợ chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư Hiền Thánh hiển lộ thần tích để chứng minh. Tối hôm đó Ngài nằm mộng thấy một vị Hòa thượng lông mày trắng nói:

- Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
 
Một trong những đời tiền kiếp, Ngài đã từng làm một người con bất hiếu và ác độc. Do nghiệp đó nên Ngài chịu khổ địa ngục rất lâu, như phải ăn gạch đá. Ngay cả sau khi chứng quả A La Hán có thần thông diệu dụng, Ngài vẫn còn tập khí ăn “gạch đá”. Có nhiều tranh ảnh miêu tả Ngài một tay cầm sách, một tay cầm bình bát, hoặc cả hay tay cung kính cầm sách, hoặc mở sách đặt trên đầu gối và tích trượng được dựng kế bên. 

Tôn giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
 

2. La Hán Khánh Hỷ - Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa)

Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau.

 


CA NẶC CA PHẠT SA

Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấây một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.

Bằng cách giảng dạy chân thật, Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân sinh.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).

3. La Hán Cử Bát - Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja)

Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.Quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
 


CA NẶC CA BẠT LY NOẠ XÀ

Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn giả chứng minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:

- Này các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật tử chí thành đời sau.

Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát.

Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.
 
4. La Hán Thác Tháp - Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda)

Tên của Ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, Ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, Ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: “Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành tựu sự giải thoát”.
 


TÔ TẦN ĐÀ

Đúng thật là Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.

Đương thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tinh xá u tịch tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra những tảng đá lớn. Tôn giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong tinh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.

Năm trăm năm sau Phật diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa.
 
Vì là một trong những đệ tử cuối cùng của đức Phật, nên đi đâu Ngài cũng cầm ngọn tháp nhỏ trong bàn tay, để nhớ công đức của đức Thế Tôn cũng như pháp thân của Phật thường trụ, mãi mãi bất diệt.
 
Hình tượng Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.

Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.
 
5. La Hán Tĩnh Tọa - Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula)

Tên của Ngài là Nặc-cù-la hay Nặc cự la 諾矩羅 (Nakula). Thiền Định A La Hán, 
 
Theo truyền thuyết, Ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa. Tuy nhiên, vì xưa kia vốn là một võ sĩ, Ngài vẫn vận dụng sức lực ngay cả những lúc hành thiền.  Theo truyền thuyết, sự gia trì của Ngài rộng khắp xứ Ấn Độ, và được xem là một trong những vị đại đệ tử của Phật.
 
 

NẶC CỰ LA

Đôi khi, Ngài có hình ảnh của một vị thầy, tay cầm tràng chuỗi, với một chú tiểu đứng cạnh. Đại sư Thiền Nguyệt vẽ tượng Ngài ngồi trên phiến đá, hai tay cầm cây Như Ý có hình dáng như đứa bé, đặt trên vai trái, dáng như đang gãi lưng. Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hìng tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá, tay phải nắm lại, đặt trên ngực, tay trái cầm phất trần đặt trên gối. Danh tánh của Ngài thường được đề cập đến trong kinh điển. Tuy chứng quả A La Hán, Ngài sống đời đơn độc, ít muốn biết đủ, không có đệ tử, và chưa bao giờ thuyết một bài pháp nào. Ngài chưa từng có thân bịnh, và sống rất lâu. Khi đến thăm ngọn tháp của Ngài, vua A Dục chỉ cúng dường một xu vì tâm không tôn kính Ngài. Do đó, Ngài chẳng nhận sự cúng dường đó.
 
Đương thời của Tôn giả, có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng chinh phục Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân chánh, Tôn giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển. Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời, không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy hoại.

Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:

- Đó chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con người chưa được diệt trừ hết.

Vua nghe Tôn giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn giả.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.
 
6. La Hán Quá Giang - Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra)

Tên của Ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
 

 

BẠT ĐÀ LA

Theo truyền thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người thọ trai, Ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi tối, Ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật. Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh.

Tiếp nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là một pháp tu hữu dụng thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy mọi người. Các tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng Ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư duy.

Theo truyền thuyết, Ngài có công hoằng hóa ở vùng Đông Ấn, và từ đó Ngài theo thương thuyền đi hoằng hóa sang những xứ Nam Dương hay Tích Lan hoằng pháp… nên được mang tên La-hán Quá Giang.. Ngoài ra, theo kinh điển, Ngài vốn là anh em họ và cũng là đại đệ tử của Phật. Ngài là một vị luận sư, thuyết giảng lời Phật dạy rõ ràng rành mạch. Do đó, Ngài có hình ảnh tay cầm kinh điển để biểu hiện sự thuyết giảng.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu - Tích Lan hay Nam Dương.
 
7. La Hán Kỵ Tượng - Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica)

Tên của Ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp.
 
Ca Lý (Kali) tiếng Phạn nghĩa là voi, và Ca Lý Ca tiếng Phạn nghĩa là nài voi hay người cỡi voi. Vì loài voi có sức lực mạnh mẽ, nên trong đạo Phật, chúng được biểu trưng cho đại hạnh. 
 
 

CA LÝ CA
 
Ngài vốn là một vị chăn voi, nhưng xuất gia, tu đạo chứng quả A La Hán. Để nhớ đến nghề nghiệp xưa của Ngài, hình ảnh Ngài thường có một con voi đi cùng. Ngoài ra, Ngài còn được gọi là Sư Tử Vương Kala, rất được vua Tần Bà Sa La kính trọng. Ngài thường có hình ảnh ngồi đọc kinh hay ngồi thiền, hoặc tay cầm lá cây.
 
Phật đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
 
8. La Hán Tiếu Sư - Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra)

Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra). 
 
Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quýt bên Ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.

 

PHẠT XÀ LA PHẤT ĐA LA

Theo kinh Thị Giả, Trung A Hàm 8, sau khi đức Phật nhập Niết Bàn không lâu, một hôm Ngài ngồi dự trong hàng thính chúng để nghe ngài A Nan thuyết pháp. Ngài nhập định thấy ngài A Nan chưa ly dục, liền xuất định thuyết kệ cho ngài A Nan. Vì vậy, ngài A Nan nhân đó thọ giáo với Ngài và rời đại chúng, tinh tấn tu hành đến khi chứng quả A La Hán.
 
Về phía Bắc tinh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn giả bảo mọi người rằng:

- Nước ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.

Mọi người nghe Tôn giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn giả nên phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.

Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để xiển dương pháp Phật.

Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán? trụ ở châu Bát-thích-noa (Bát Thứ Noa châu)
 
9. La Hán Khai Tâm - Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka)

Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y làm đệ tử.
 


THÚ BÁC CA

Sau khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ nói:

- Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây.

Nói xong, Ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng Lâm. Quần chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, tôn giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn giả.

Theo Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ  chín, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy.
 
10. La Hán Thám Thủ - Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka), A La Hán Giơ Tay

Ngài tên là Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka), Trung Hoa dịch:  Đạo Sanh, Đại lộ biên sanh, A La Hán Giơ Tay. 
 
Theo truyền thuyết, Ngài là một hoàng tử của tiểu quốc Kintota. Khi xuất gia, Ngài thích ngồi thiền bán già. Khi thức dậy, Ngài thường giơ tay lên và thở một hơi thở ra dài, nên được gọi là vị A La Hán Giơ Tay. 
 

BÁN THÁC CA
 
Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ. Ngài là anh của vị A La Hán Châu-lợi-bàn-đặc (bàn đà). Cả hai anh em cùng được sanh ra ở trên đường, nên được gọi là Đại Lộ Biên Sanh hay Đạo Sanh. Ngài vốn là con của một người dòng Bà La Môn ở thành Xá Vệ, Trung Ấn Độ. Ngài giỏi về các môn thư toán, xướng tụng, bốn minh, sáu tác, v.v… đầy đủ trí huệ, có 500 đồng tử theo học. Về sau Ngài được nghe Phật thuyết pháp mà xuất gia tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán. Ngài là một trong những vị đại đệ tử của Phật. Ngài có khả năng giải thích những điều nghi ngờ khó khăn trong hàng Thanh Văn, và có thần thông diệu dụng phi thường. Ngài có thể đi ngang qua các vật cứng, bay trên hư không, trên thân phát ra lửa hay nước tùy ý. Ngài có thể hóa thân nhỏ dần cho đến không còn gì nữa. Đôi khi đức Phật bảo Ngài dùng thần thông để điều phục và bắt các vua rồng dữ bỏ vào bình bát. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm 3, do sức ẩn hiện tự tại, Ngài được gọi là Tỳ Kheo Bàn Thố”.
Bán-thác-ca lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng đoàn, trở thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, Ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc, thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận ghét.

Về sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp”.

Hai tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười, Ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
 
11. La Hán Trầm Tư - La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula)

Ngài chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). 
 
Theo truyền thuyết, Ngài sanh ra vào lúc nguyệt thực, nên có tên là Chướng Nguyệt. Ngài là một trong mười đại đệ tử của Phật, và là vị hành mật hạnh bậc nhất. Cha Ngài là thái tử Tất Đạt Đa, tức là đức Phật sau này. Mẹ Ngài là công chúa Da Du Đà La. Theo kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên, đức Phật thành đạo sau sáu năm mới trở về thành Ca Tỳ La Vệ, độ cho Ngài xuất gia thọ giới. Ngài Xá Lợi Phất làm Hòa Thượng, còn ngài Mục Kiền Liên làm A Xà Lê. Ngài là vị Sa Di đầu tiên trong giáo đoàn của Phật. Lúc còn làm Sa Di, Ngài làm những chuyện không đúng pháp, nên được Phật răn dạy phải nghiêm giữ giới luật, tinh tấn tu hành, rồi sau này chứng quả A La Hán.
 
 


La Hầu La

Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm ở, Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem cúng người khác, Ngài cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng.
 
Sau khi chứng quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ, Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.

Sau Phật diệt độ, vua nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng, số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành khất thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại thế, Ngài cũng từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.

12. La Hán Khoái Nhĩ - Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên

Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay Long Quân: A La Hán Ngoái Ta, còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận. 

Ngài sống vào cuối thế kỷ thứ hai trước Tây lịc. Ngài sanh vào dòng Bà La Môn ở thôn Yết Đăng Yết La (Kajangala) miền Trung Ấn. Ban đầu, Ngài theo học giáo nghĩa Phệ Đà, nhưng cảm nhận sâu sắc rằng rất ít thấy những điều thiện trong giáo nghĩa Bà La Môn, nên đến cầu học với tôn giả Lâu Hán (Rohana), rồi xuất gia, tu học luận tạng và 7 bộ A Tỳ Đàm,

Đương thời Ngài đến xứ Xá Kiệt (Sagala), trụ trì chùa Tiết Để Ca gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.

 


NA GIÀ TÊ NA

Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.
 
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.
 
13. La Hán Bố Đại - Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada)
 
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người, Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.

 

NHÂN YẾT ĐÀ

Nhân có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di-lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di-lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả.

La-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các Ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La-hán Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện thân của Bồ-tát Di-lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.

Theo truyền thuyết, Ngài là một người chuyên bắt rắn để giúp người đi đường tránh bị rắn cắn. Sau khi bắt rắn, Ngài lấy nọc độc ra, rồi thả chúng vào núi. Nhờ tâm từ bi mà Ngài tu hành chứng quả thánh. Ngài thường mang một túi vải để bắt rắn. Ngài có hình dáng to lớn

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.

14. La Hán Ba Tiêu - Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin)

Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán, cây chuối, La-hán Ba Tiêu.

 


Phạt-na-bà-tư

Có lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức của Phật, yêu long xin Ngài lưu lại chỗ của mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy Ngài không thể ở một nơi lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán đến, đó là các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận lễ vật cúng dường, Ngài thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.

Theo lời phó chúc của đức Phật, Tôn giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn giả hóa làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó, vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của tôn giả Phạt-na-bà-tư.
 
Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.
 
15. La Hán Trường Mi - A-thị-đa 阿氏多 (Ajita)

Tên của Ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.

 

A-thị-đa

Ngài cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của Thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng Thái tử hết bệnh. Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.

Đã hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị bệnh cho người hay tọa thiền trên núi.

Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.
 
16. La Hán Kháng Môn - Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka)

Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
 

 

CHÚ TRÀ BÁN THÁC CA

Một hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem có sót người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của Châu-lợi-bàn-đặc.

Theo truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.

Nếu người trong nhà muốn cúng dường thức ăn cho ông, thì họ sẽ bước ra”. Cây tích trượng về sau có những vòng sắt, và khi gióng xuống đất sẽ vang tiếng loảng xoảng. Cây tích trượng là vật biểu trưng cho Ngài.

Theo một truyền thuyết khác, Ngài được gọi là Tiểu Lộ Biên Sanh, vì được sanh ra ở bên vệ đường. Người anh của Ngài là Đại Lộ Biên Sanh. Bẩm tánh Ngài đần độn ngu dốt vì nghiệp xấu, nên không thể nhớ nổi một bài kệ trong những giáo pháp đã được dạy. Do đó, người đương thời gọi Ngài là Ngu Lộ, nhưng đức Phật vẫn rất thương mến và kiên nhẫn dạy Ngài. Lần nọ, có một ông vua thỉnh Phật và chư tăng đến dùng điểm tâm, nhưng không mời Ngài. Khi biết rõ sự tình, đức Phật không ngồi xuống dùng trai cho đến khi ngài Châu Lợi Bàn Đà được mời tới thọ trai. Khi Ngài bị người anh, ngài Đại Lộ Biên Sanh, đuổi ra khỏi tăng đoàn vì không thể học được gì, đức Phật dẫn Ngài trở lại, an ủi, và dạy phải tụng đọc câu “Chổi quét”. Nhờ niệm nhớ hai chữ đó, nên dần dà Ngài trực nhận rằng phải quét hết tất cả sự cấu uế trên thế gian bằng cây chổi giáo pháp của đức Phật, rồi chẳng bao lâu Ngài chứng quả A La Hán. Sau đó, Ngài dùng thần thông thị hiện các thân hình, bay lên hư không, biến ra 500 con trâu và cỡi lên chúng, cũng như thuyết pháp cho lục quần tỳ kheo ni.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục.

17. La Hán Hàng Long - Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra)

Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.

 

NAN ĐỀ MẬT ĐA LA (PHỤC LONG LA HÁN)

Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.

Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.

* Dị bản: Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
 
18. La Hán Phục Hổ - Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), TẦN ĐẦU LA

Tên của Ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta) hay còn gọi TẦN ĐẦU LA (PHỤC HỔ LA HÁN), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các Ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy.

 

TẦN ĐẦU LA (PHỤC HỔ LA HÁN)

Một hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.

Thành một A-la-hán thần thông tự tại, Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, Lúc vào chùa tu tập trong núi rừng, Ngài nghe tiếng hổ gầm mỗi ngày. Vì nghĩ rằng hổ có lẽ đói khát, nên phải cho ăn chay, bằng không thì chúng sẽ ăn thịt người, Ngài đi xin cơm của tăng chúng rồi bỏ cơm vào thúng, để ngoài tu viện. Con hổ đó đến ăn cơm vào mỗi buổi tối, và chẳng bao lâu, Ngài điều phục được nó đi đâu thì dẫn theo. Vì vậy bên cạnh hình tượng Ngài người ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ.

La-hán Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục La-hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.
 

Ban Biên tập sưu tầm
 
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 20 trong 4 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Thăm dò ý kiến

Nhờ đâu bạn biết đến website phatgiaoaluoi.com?

Sự giới thiệu của bạn bè

Tình cờ tìm gặp trên google

Tình cờ tìm gặp trên Yahoo search

Tình cờ tìm gặp trên facebook

Công cụ tìm kiếm khác

Giới thiệu

Chào mừng quý vị ghé thăm website http://phatgiaoaluoi.com

   GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HUYỆN A LƯỚI BAN TRỊ SỰ Văn phòng: Niệm Phật đường Sơn Nguyên, 32 Giải phóng A So, thị trấn A Lưới, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế Điện thoại: 090 501 2992 - Email: phatgiaoaluoi@gmail.com Website: www.phatgiaoaluoi.com LỜI NÓI ĐẦU Nam mô Bổn sư Thích...

Thống kê

  • Đang truy cập: 337
  • Khách viếng thăm: 326
  • Máy chủ tìm kiếm: 11
  • Hôm nay: 64003
  • Tháng hiện tại: 2872146
  • Tổng lượt truy cập: 88676749
Xem bản: Desktop | Mobile

Xin ghi rõ nguồn chính khi trích dẫn thông tin từ website này.

Ngày thành lập : 12-09-2012