Hiếu hạnh độ song thân

Hôm nay là rằm tháng Bảy âm lịch, ngày Vu-lan báo hiếu báo ân của người con Phật chúng ta. Toàn thể Phật tử vân tập về Thiền viện Vạn Hạnh, lễ Phật, nghe pháp và nỗ lực làm các việc phước lành để tỏ rõ tấm lòng quy kính đối với Tam bảo, tỏ rõ tấm lòng thương kính đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên cùng với tâm nguyện cầu mong cho những người thân yêu của mình nương nhờ uy đức Tam bảo mà được phước báo an vui giải thoát.

 
Đó là tâm hiếu và hạnh hiếu của người con Phật chúng ta. Nhân dịp này, thay mặt chư Tăng Thiền viện Vạn Hạnh, chúng tôi xin có lời chào mừng tất cả quý vị đến tham dự Đại lẽ Vu-lan tại Thiền viện; kính cầu chúc toàn thể quý vị cùng quý gia quyến hiện tiền đều được thân tâm an lạc; kính cầu nguyện hương linh các bậc cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc nhiều đời của quý vị nương nhờ hồng ân Tam bảo mà hưởng được phước lành sanh vào các cảnh giới hiền thiện có đời sống an vui giải thoát. Xin trân trọng gởi đến quý vị bài thuyết trình Đại lễ Vu-lan có tựa đề “Hiếu hạnh độ song thân”, nhấn mạnh đến phương pháp báo hiếu của người con Phật do chính Đức Bổn sư trực tiếp giảng dạy cho người Phật tử chúng ta.  
 
Hiếu hạnh hay lối sống hiếu thảo đối với cha mẹ là một đạo lý quan trọng đối với hầu hết mọi dân tộc trên thế giới, đặc biệt là đối với các dân tộc châu Á vốn thiên nặng đời sống tình cảm gia đình và xem trọng đạo lý làm người. Một kẻ giàu có, nhà cao cửa rộng, lắm tiền nhiều của, mà không đoái hoài gì đến cha mẹ hoặc để cho cha mẹ rơi vào hoàn cảnh khốn khó không nơi nương tựa thì chẳng ai xem vị ấy ra gì. Trái lại, một người nghèo khó mà tận tâm hiếu dưỡng cha mẹ thì luôn luôn được mọi người tôn trọng và hết lòng ngợi ca. Đó là quan niệm đạo đức Đông phương, được hình thành rất sớm trong đời sống các dân tộc châu Á và được chuyển tải trong vô số các truyện tích dân gian, trong kho tàng ca dao tục ngữ của mỗi dân tộc, mà mỗi người chúng ta đều cảm thấy gần gũi và ấm lòng mỗi khi đọc đến hoặc nghe người khác ngâm đọc. Hết thảy mọi người chúng ta đều không sao tránh khỏi bồi hồi xúc động khi nghe đến các câu:   
 
Công cha như núi Thái sơn, 
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. 
 
Hay:
 
Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là cù lao.  
 
Hoặc:
 
Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân. 
 
Trong giới hạn bài thuyết trình này, chúng tôi muốn mượn cốt truyện tập thơ “Nam Hải Quan Âm” để nói lên quan niệm báo hiếu - “độ song thân” - của người Việt chúng ta nhờ tin sâu và hiểu sâu giáo pháp giác ngộ của Phật. 
 
Chúng ta biết rằng từ rất sớm, cư dân đất Việt đã khéo tiếp thu tinh thần hiếu đạo được chú ý nhấn mạnh trong giáo lý đạo Phật và đã khéo chuyển tải tinh thần ấy vào trong đời sống dân gian, khiến làm phong phú và sâu sắc thêm ý nghĩa hiếu đạo trong quan niệm sống của người Việt. Đó là sự phổ cập trong đời sống quần chúng dân gian tập truyện thơ “Nam Hải Quan Âm” với nhân vật Diệu Thiện dốc lòng tu hành đạt thành chánh quả để báo hiếu song thân và cứu vớt muôn loài. Suốt một thời gian dài, hầu như người Việt nào cũng thích ngâm nga các câu: 
 
Chơn như đạo Phật rất mầu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân. 
Hiếu là độ được song thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài.  
 
Hay: 
 
Trên thời hiếu báo sanh thành,
Dưới thời nhân cứu chúng sanh Ta-bà.  
 
Trên đây là nghĩa chữ tu của Quan Âm Diệu Thiện trong câu chuyện, cũng chính là lý tưởng tu hành của người Phật tử hay còn được gọi là đạo hiếu của người con Phật. Hiếu đi đôi với tu; tu là để báo hiếu, độ song thân. Bởi vì tu theo Phật chính là để độ mình, độ muôn loài chúng sinh thoát khỏi cảnh trầm luân khổ đau trong đó có cha mẹ mình. Độ là đi qua, vượt qua, đưa qua, giúp đi qua, giúp vượt qua; tự mình nỗ lực dùng phương tiện từ bờ bên này vượt qua bờ bên kia gọi là tự độ, hoặc dùng phương tiện và năng lực của mình để giúp đưa người từ bờ bên này sang bờ bên kia gọi là độ tha. Người tu hành theo đạo Phật dùng giáo lý Giới-Định-Tuệ của Phật làm phương tiện để tự mình vượt qua mọi mê lầm khổ đau và nỗ lực khuyến khích, chỉ bày cho người khác cách thức giúp cho họ vượt qua mê lầm khổ đau, gọi là tự độ và độ tha. Vị hành giả ấy được ví như người đưa đò, muốn đưa người sang bờ bên kia một cách an toàn thì trước hết phải tự học chèo đò cho thật thông thạo rồi mới có đủ kinh nghiệm để giúp đưa người an toàn qua sông. Đây chính phương cách tu hành của người con Phật, theo đó chữ hiếu được nhấn mạnh trên cơ sở tự mình nỗ lực tu học lời Phật dạy và giúp cho cha mẹ tin tưởng và sống theo lời Phật dạy để cha mẹ tự vượt qua mọi phiền não khổ đau gọi là “độ song thân”. 
 
Giờ đây, chúng ta hãy nhẫm đọc lại cho thật kỹ những lời Phật nhấn mạnh về phương pháp báo đáp thâm ân của cha mẹ để hiểu rõ hơn thế nào là ý nghĩa “hiếu hạnh độ song thân”:  
 
“Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm cho đến 100 tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. 
 
Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với mẹ cha không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha” . 
 
Lời Phật dạy là hết sức rõ ràng cho những ai mong muốn báo đáp thâm ân sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, gồm hai vế.
 
Vế thứ nhất là cách báo hiếu của những người chưa có nhân duyên học hỏi và hành trì giáo pháp giải thoát của Phật, gọi chung là hiếu hạnh của người thế gian. Ở đây chữ hiếu được thể hiện qua tấm lòng quý kính cha mẹ, hết lòng chăm lo săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ một cách tận tâm tận lực trong lúc cha mẹ còn sinh tiền. Hẳn nhiên, đối với người thế gian mà có tấm lòng làm được những điều tốt đẹp như lời Phật dạy đối với cha mẹ thì đã là cao quý lắm rồi. Còn gì đáng quý và yên lòng hơn việc tự tay chăm lo săn sóc cho cha mẹ từng li từng tí như đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, ẵm bồng, dọn vệ sinh cho cha mẹ; hay còn gì hân hoan và sung sướng hơn một khi có đủ điều kiện để cung hiến đời sống vật chất cao sang nhất cho cha mẹ? Hãy nghĩ đến tấm lòng thương kính cha mẹ của những người con hiếu thảo nhưng gặp phải cảnh ngộ khó khăn xa cách như được ghi lại trong các câu ca dao để nhận ra rằng mình thật may mắn hạnh phúc khi được sống gần gũi bên cha mẹ, được tự tay sớm hôm hầu hạ chăm sóc cho cha mẹ, có đủ điều kiện để dâng hiến các tiện nghi vật chất tốt đẹp cho cha mẹ:
 
Đói lòng ăn đọt chà-là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Ai về tôi gởi đôi giầy
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. 
 
Như vậy, tận tâm tận lực hầu hạ chăm sóc cho cha mẹ, cung phụng đời sống vật chất đầy đủ cho cha mẹ chính là việc làm thiết thực lợi lạc của đạo làm con mà mọi người cần phải nỗ lực thực hiện để đền đáp phần nào công ơn cao dày của cha mẹ. Đây là vế thứ nhất trong những lời khuyên dạy của Đức Phật về hiếu hạnh, về cách thức báo đáp thâm ân của cha mẹ mà dân gian ta đã khéo ví von như là một cách thể hiện nghĩa chữ tu được áp dụng trong đời sống gia đình, trong việc báo hiếu, thờ kính phụng dưỡng các đấng sinh thành: 
 
Đói lòng ăn đọt chà-là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Lên chùa thấy Phật muốn tu, 
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền. 
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
 
Tuy nhiên, với trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Phật thấy rõ tính cách hạn chế của phương pháp báo hiếu ở vế thứ nhất và vì vậy Ngài nói tiếp vế thứ hai, nhấn mạnh đến cách thức giúp cho cha mẹ thực thi lẽ sống giác ngộ hay lẽ sống chân chính hiền thiện, có trí tuệ, có từ tâm, khiến cho cha mẹ biết nuôi dưỡng và phát huy tiềm năng giác ngộ vốn có của chính mình để tự tìm thấy an lạc ở đời này và đời sau. Đây gọi là thực hiện lòng hiếu kính đúng như lời Phật dạy hay phương pháp báo hiếu của người Phật tử, tức là thể hiện tâm hiếu “độ song thân” bằng cách khuyến khích, hướng dẫn và an trú cha mẹ vào con đường giác ngộ, con đường của sự nuôi dưỡng và phát triển đạo đức, tâm đức, tuệ đức, khiến cho cha mẹ luôn luôn được sống trong tâm niệm an vui giải thoát, cả đời này và đời sau. Lẽ tất nhiên, để làm được điều này, nghĩa là giúp cho cha mẹ thực hành lẽ sống giác ngộ, thì trước hết người làm con phải có lòng tin sâu và hành sâu về con đường giác ngộ rồi bấy giờ mới có thể giúp cho cha mẹ từng bước đi vào con đường giác ngộ. Nói cách khác, muốn độ cha mẹ thì trước hết phải biết độ mình. Đây là điểm then chốt trong phương pháp báo hiếu của người con Phật, nói rõ sự khác biệt về cách thức báo hiếu giữa một người chưa có nhân duyên học Phật và một người Phật tử thuần thục Phật pháp. Chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ một cách đầy đủ, làm cho cha mẹ cảm thấy hài lòng sung sướng với cuộc sống sung túc hiện tại là điều mà mọi người cần làm và có thể làm được. Nhưng để “độ song thân” hay giúp cho cha mẹ dần dần đi ra khỏi cảnh u tối khổ đau của luân hồi thì không phải ai cũng biết cách thực hiện. Đây cũng chính là nỗi ưu tư lớn của người con Phật khi nghĩ nhớ đến cha mẹ mình, tức là phải làm sao để cho cha mẹ vừa có được cuộc sống thoải mái nhàn nhã hiện tại, vừa nuôi dưỡng và phát huy được các phẩm chất giác ngộ như tín tâm, giới đức, bố thí, trí tuệ để cha mẹ có được hạnh phúc và an lạc lâu dài. Vì chỉ có làm được như thế thì mới báo đáp đầy đủ ân đức của cha mẹ đúng như lời Đức Phật dạy hay mới độ được cha mẹ mình.  
 
May mắn thay, những lời Đức Phật dạy đã làm vơi đi nỗi ưu tư của người Phật tử hiếu thảo. Nội dung lời Phật chỉ bày về phương pháp báo hiếu báo ân đầy đủ cho cha mẹ hay về cách thức “độ song thân” là hoàn toàn dễ hiều và dễ thực hành đối với mọi người con Phật. Đó không gì khác là nếp sống chân chính của một Phật tử, có đầy đủ lòng tin ở Tam bảo, có nếp sống khéo gìn giữ các thiện giới, có tâm lượng rộng lớn sẵn sàng giúp đỡ người khác, có trí tuệ phân biệt rõ ràng đâu là thiện để theo, đâu là ác để từ bỏ. Nói cách khác, đó chính là nếp sống biết nuôi dưỡng và phát triển các phẩm chất đạo đức, tâm đức, tuệ đức, có khả năng loại trừ mọi mê lầm khổ đau, hướng đến giác ngộ giải thoát mà bất cứ người Phật tử nào cũng được khuyến khích nỗ lực thực hành và chia sẻ với người khác.  Đức Phật thường khuyên nhắc các học trò mình: 
 
“Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình từ bỏ sát sanh và khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh; tự mình từ bỏ lấy của không cho và khuyến khích người khác từ bỏ lấy của không cho; tự mình từ bỏ tà hạnh trong các dục và khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục; tự mình từ bỏ nói láo và khuyến khích người khác từ bỏ nói láo; tự mình từ bỏ nói hai lưỡi và khuyến khích người khác từ bỏ nói hai lưỡi; tự mình từ bỏ nói lời thô ác và khuyến khích người khác từ bỏ nói lời thô ác; tự mình từ bỏ nói lời phù phiếm và khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm; tự mình không tham và khuyến khích người khác không tham; tự mình không có sân tâm và khuyến khích người khác không có sân tâm; tự mình có chánh kiến và khuyến khích người khác có chánh kiến”.  
 
Như vậy, một Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia, nếu chuyên tâm sống theo lời Phật dạy, nghĩa là thể hiện một nếp sống có tín tâm, có giới đức, có bố thí, có trí tuệ, thì đều có khả năng báo đáp công ơn của cha mẹ mình một cách tốt đẹp hay có thể “độ song thân”. Trong giáo lý đạo Phật, tự mình nỗ lực thực hành lời Phật dạy về tăng trưởng tín tâm, tăng trưởng giới đức, tăng trưởng bố thí, tăng trưởng trí tuệ thì được gọi là tự lợi hay tự độ, nghĩa là tự mình được lợi ích an lạc, được thoát khỏi phiền não khổ đau nhờ sống theo giáo pháp giác ngộ hiền thiện của Phật. Tự mình được an lạc, vượt qua phiền não khổ đau rồi mà nỗ lực khuyến khích và chỉ bày cho người khác cách thức khiến cho họ cũng được an lạc, thoát khỏi phiền não khổ đau thì gọi là sống tự lợi và lợi tha hay còn gọi là độ mình và độ người. Đây là ý nghĩa căn bản của chữ “độ” trong quan niệm của đạo Phật, theo đó người con Phật được khuyên cần phải thường xuyên dốc tâm tu học Phật pháp, cùng lúc nỗ lực khuyến khích và hướng dẫn cha mẹ mình thực hành Phật pháp như là một nếp sống hiếu hạnh, một cách thức báo hiếu sáng suốt, vừa đem lại lợi lạc cho mình vừa mang lại lợi lạc cho cha mẹ mình. 
 
Nói tóm lại, hiếu hạnh là một nếp sống cao quý luôn luôn được khuyến khích và nhấn mạnh trong đạo Phật. Đó không gì khác là hạnh tu của người con Phật trong ý nghĩa tự lợi và lợi tha. Người Phật tử thương kính cha mẹ, muốn báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục trời biển của cha mẹ một cách tốt đẹp như lời Đức Phật dạy hay muốn “độ song thân” thì không những phải hết lòng chăm lo cho cuộc sống hiện tại của cha mẹ một cách đầy đủ, tận tâm tận lực, mà quan trọng hơn là phải biết tự mình tu tập, thể hiện một đời sống có chánh kiến, có giới đức, có từ tâm, có trí tuệ để khuyến khích, tạo niềm tin cho cha mẹ mình, giúp cho cha mẹ dần dần nhận ra lợi ích của nếp sống chân chánh hiền thiện mà dốc tâm thực hành. Làm được như thế thì việc tu học Phật pháp của người con Phật chúng ta mới thực sự có ý nghĩa và lợi ích, vì tu theo Phật là để lợi mình, lợi người, lợi cả hai; tu cũng chính là thể hiện tâm hiếu, bởi tu là nỗ lực để độ mình, độ cha mẹ mình, độ hết thảy chúng sinh vượt qua mọi mê lầm, phiền não, khổ đau, đạt đến Niết-bàn, an vui, giải thoát. 
 
Là người Phật tử hiểu rõ về đạo lý nhân quả nghiệp báo, chúng ta thực sự an tâm và hân hoan khi biết rằng cha mẹ hay những người thân yêu của mình hiện hữu trên cuộc đời này với một nếp sống có chánh kiến, có giới đức, có từ tâm, có trí tuệ; trái lại, chúng ta sẽ cảm thấy đầy lo buồn và hối tiếc khi cha mẹ hay những người thân yêu của mình không may đi lạc vào tà đạo. Sở dĩ như vậy là bởi chúng ta hiểu rằng hạnh phúc hay khổ đau của chúng sinh là hoàn toàn do nghiệp thức của mỗi người tạo nên. Cái chuỗi hiện hữu là vô cùng vô tận; đời sống của mỗi chúng sinh, vui hay buồn, sướng hay khổ là hoàn toàn tùy thuộc vào lối sống có đạo đức hay không có đạo đức của chính người ấy. Hiểu được đạo lý nhân quả ấy, chúng ta mới dốc tâm học tu theo Phật, mới nỗ lực làm điều lành tránh điều ác, mới biết cách tốt đẹp nhất để báo hiếu cho cha mẹ, mới có thể tạo nhân duyên tốt lành giúp cho cha mẹ an hưởng quả báo phước lành trong các đời sau. 
 
Làm người ai rồi cũng có lúc trải qua tâm trạng “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”, cũng có lúc chạnh lòng nhớ đến ân cha nghĩa mẹ đã “cưu mang trứng nước những ngày còn thơ”. Thế nên, để cho sự ngậm ngùi nhớ thương ấy không làm nặng lòng chúng ta do sự thiếu hiểu biết và bất cẩn của mình, ngay bây giờ mỗi người chúng ta hãy nỗ lực sống đúng với lời Phật dạy và hãy thương kính cha mẹ chúng ta đúng như lời Đức Phật dạy. Có như thế thì sự thương nhớ cha mẹ của chúng ta mới nhẹ nhàng, nguôi ngoai; chúng ta vẫn có những lúc ngậm ngùi thớ thương đến cha mẹ, nhưng cảm giác nhớ thương ấy chỉ làm cho chúng ta hân hoan, không làm cho chúng ta buồn phiền, chỉ làm cho tâm chúng ta thanh thản an lạc, không làm cho tâm chúng ta lo buồn hối tiếc.               
 
Nhân ngày Vu-lan báo hiếu, cầu mong mỗi người con Phật chúng ta hãy noi gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên mà làm những gì tốt đẹp để đáp đền ân đức các bậc cha mẹ đã quá vãng; còn với những ai may mắn có các đấng sinh thành đang hiện hữu ở bên mình thì hãy tận tâm tận lực làm tròn những gì Đức Phật đã chỉ dạy để góp một chút công đức nhỏ nhoi làm vui lòng cha mẹ hiện tại và giúp cho cha mẹ có được cuộc sống thanh thản an lạc ở những đời sau. 

 
 

Tác giả bài viết: Thích Tâm Minh