Đức Phật đã dạy những gì?

Bi mà không Trí, là tà vậy! Trí mà không Dũng, là yếu hèn! Bi Trí Dũng nghe rất đơn giản, mà đã là một điều rất khó thành tựu ở một người con Phật chân chính trong thời đại ngày nay vậy!
Trí tuệ trong đạo Phật không chỉ là sự học rộng, biết nhiều (đa văn), mà chính ở lòng khát ngưỡng chân lý, mong cầu giải thoát từ những thực chứng đời sống, từ sự tinh tấn hành trì theo đúng lời Phật dạy.
Ðức Phật dạy: "Tự ta là chỗ nương tựa cho ta, không còn ai khác có thể làm nơi nương tựa?"
 
Ngài khuyên các môn đệ hãy "nương tựa nơi chính mình," không bao giờ nên tìm nơi nương tựa hay sự giúp đở của bất cứ người nào khác. Ngài giảng dạy, khuyến khích mỗi người tự mở mang và tìm sự giải thoát cho chính mình, vì con người vốn có năng lực tự giải thoát khỏi mọi ràng buộc bằng trí tuệ và nỗ lực của chính mình.
 
Ðức Phật dạy: "Các đức Như Lai giảng dạy Chánh đạo, nhưng chính các ngươi phải làm việc của mình."Nếu người ta gọi đức Phật là một "đấng Cứu thế " thì cũng chỉ vì Ngài đã tìm ra và chỉ con đường đi đến giải thoát, Niết-bàn. Nhưng tự chúng ta, ta phải bước trên đường ấy.
 
Đức Phật khuyên chúng ta phải tư duy và hiểu biết. Chúng ta nhận thức một cách hợp lý. Chúng ta có khả năng nhận thức, không giống như những chúng sanh khác chỉ có trí óc, nhưng không suy nghĩ một cách có lý trí. Trí óc của chúng giới hạn trong việc tìm kiếm thức ăn, nơi trú ẩn, tự vệ và cảm giác khoái lạc. Chúng không phát huy trí óc của chúng xa hơn chúng ta.
 
Nhưng con người có trí tuệ để tư duy và nhận thức lên đến mức độ cao nhất. Đó là lý do tại sao các nhà khoa học đã tìm tòi và khám phá ra nhiều điều mà chúng ta chưa từng nghe nói đến trước kia. Không có một chúng sanh nào khác sống trên thế giới này có thể phát triển tư duy đến mức độ đó. Đó là lý do tại sao chỉ con người mới có thể trở thành một vị Phật.
 
Phật dạy chúng ta, hãy hành động theo những chứng nghiệm của chính chúng ta. Duy chỉ có trau dồi trí tuệ con người mới có thể đạt đến giác ngộ. Khi đó chúng ta mới chứng quả.
 
Đức Phật là một con người, đã giảng dạy cho chúng ta những điều chúng ta có thể làm được (giống như ngài), và Ngài đã dạy chúng ta những con đường nào cần phải đi, hoặc là những pháp môn nào để tu tập mà chúng ta có thể đi theo Ngài, (nếu chúng ta muốn).
 
Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta những điều kiện hỗ trợ khác nhau, để giúp chúng ta đi trên con đường nầy - và Ngài cũng đã chỉ bày cho chúng ta các mối nguy hiểm khác nhau, mà sẽ là các chướng ngại sẽ xảy ra, ngăn cản chúng ta đang đi trên con đường tu tập.
 
Đạo Phật là “con đường”.
 
Chúng ta đi theo con đường của Như Lai thì phải hành theo hạnh Như Lai. Thao thức đem giáo pháp vào đời là tâm nguyện của bất cứ ai dấn thân theo con đường mà Đức Phật đã khai mở. Muốn thực hiện tâm nguyện đó, chúng ta phải có có đủ ba đức tính cốt lõi của Đạo là “Bi, Trí, Dũng”.
 
Tất cả chúng ta đều hiểu Đạo Phật là Đạo của Từ bi, của Trí tuệ, của Dũng mãnh; nên người ta vẫn thường nói Đạo Phật là “Đạo Từ Bi”, lấy câu “Duy tuệ thị nghiệp” làm phương châm, đưa vào huấn dụ “Tự dũng mãnh thắp đuốc lên mà đi” làm nền tảng, trong qúa trình tu tập và hoằng dương chánh pháp!
 
Từ Bi Hỷ Xả còn được gọi là “Tứ Vô Lượng Tâm”- bốn tâm rộng lớn, có thể bao trùm vạn vật, đem lại vô lượng an lạc cho mình, cho người! Người không có đủ bốn tâm cốt yếu đầu tiên nầy, Tâm không thể an định, nên sẽ chẳng bao giờ hiểu biết được Chánh pháp. Không hiểu biết hết Chánh pháp, thì Trí tuệ sẽ không sanh trưởng được! Và tất yếu, sẽ dần dần lạc bước vào đường tà đạo…Tạo nhiều nghiệp xấu ác, uổng phí một đời tu học Phật pháp khó gặp!
 
Có tâm “Từ” đúng chánh pháp, trong sáng, thì tâm “Bi” tự nhiên sanh trưởng. Từ - Bi có thể hiểu là một tâm khắn khít, không thể tách rời, để thể hiện lòng thương tưởng, lắng nghe, cảm thông và chia sẻ cùng mọi người mọi nỗi bất hạnh, khổ đau. Cảm thông, yêu thương, đùm bọc, che chở, đem an vui cho người với tâm Từ Bi thì tất cả đều có được lợi lạc vô lượng. Đó là một sự thật không thể khác!
 
Ngược lại, sự “thương người” (Từ Bi) trong phân biệt, mong cầu, và so sánh đối đãi - thì chẳng những không sanh phước huệ cho ai, mà còn tạo thêm phiền não, khổ đau!
 
Trong đời sống thực tế, sự “thương người” với lòng ngã mạn hay ban phát (xin cho) theo kiểu giả dối nầy được thấy khá phổ biến, đến nỗi, đã trở thành một cái “nếp” cái “kiểu” không hề bị phản đối; góp phần tạo nên sự vô cảm máy móc nơi nhiều lớp người, chỉ vì lợi dưỡng hay danh hảo, kể cả người được “ca ngợi” là có “tâm từ bi”!
 
Bởi vậy, chúng ta không ngạc nhiên, khi Đạo Phật đã quan tâm đến Trí Tuệ đi liền sau Từ Bi! Từ Bi mà không có Trí Tuệ, dễ đi lạc vào đường tà, chẳng lợi gì cho Chánh pháp, mà còn làm suy yếu Chánh pháp nữa!
 
Không có trí an tịnh, sáng suốt, là ngọn đuốc Pháp dẫn dắt, soi sáng, thì Tâm vô minh phân biệt giả trá sẽ thao túng lôi cuốn, dìm người vào chốn tham đắm, và phóng túng dễ dàng xãy ra.
 
Lưu ý: Trí tuệ trong đạo Phật không chỉ là sự học rộng, biết nhiều (đa văn), mà chính ở lòng khát ngưỡng chân lý, mong cầu giải thoát từ những thực chứng đời sống, từ sự tinh tấn hành trì theo đúng lời Phật dạy. riêng Trí tuệ gói gọn trong học vị, danh vị, cũng chỉ là những lớp vỏ bọc ngoài của viên thuốc!
 
Trí tuệ Phật pháp sanh trưởng trong sự thanh tịnh và yên lặng, chứ không có nơi xô bồ huyên náo với nhiều danh xưng, nhiều hình thức lộng lẫy. Trí tuệ còn được nhận ra bởi sự “chính tâm tu tập các pháp giác chi (là “thất Bồ đề phần” hay “thất giác chi” : niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, tự giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi) xa lìa tánh cố chấp, rời bỏ tâm nhiễm ái, diệt hết mọi phiền não” (Pháp Cú 89).
 
Trí tuệ trong Đạo Phật có ý nghĩa thiêng liêng rộng lớn, bằng nổ lực tu rèn tự thân mà đạt, chứ không ai có thể “ban phát” cho ai được! ngay cả đức Thế Tôn cũng không thể.Bởi lẽ ấy, Đức Phật đã từng dạy về mẫu người “đại trí” như sau: “Như ngọn núí kiên cố chẳng bao giờ bị gió lay, những lời hủy bán hoặc tán dương chẳng bao giờ làm lay dộng được người Đại Trí” (Pháp Cú 81).
 
Khi đã kinh qua tâm từ bi, và đạt trí tuệ đúng như pháp, thì “Dũng” phát sanh! Lòng dũng mãnh kiên định đã được vun đắp bởi tâm từ bi, và trí tuệ, thì sẽ không bao giờ bị lay chuyễn trước mọi uy quyền, thế lực; không sợ hãi trước mọi hiểm nguy rình rập phía trước.
 
Sự dũng mãnh kiên cố ấy, được thể hiện qua câu chuyên về vị đại đệ tử Phú Lâu Na (Punna) xin Phật đi hoằng pháp ở xứ Sronàparanta. Như sau:
 
Đức Phật nói: “Người dân xứ Sronàranta nổi tiếng dữ dằn, thô lỗ…Nếu họ nói với ông những lời dữ dằn, thô lỗ, hỗn láo thì ông nghĩ thế nào ?”. Phú Lâu Na (Punna) : “Con sẽ nghĩ rằng người dân ở Sronàparanta quả thực là những người tốt bụng và hiền lành, vì họ không đánh con bằng tay, cũng không ném đá vào con”.
 
Đức Phật: “Nhưng nếu họ đánh ông bằng tay hay ném đá vào ông thì ông sẽ nghĩ thế nào?. Phú Lâu Na: “Con sẽ nghĩ rằng họ là những người hiền lành và tốt bụng vì họ không đánh con bằng gậy, không đâm con bằng gươm”.
 
Đức Phật : “Nhưng nếu họ đánh ông bằng gậy hoặc đâm ông bằng gươm thì ông sẽ nghĩ thế nào?”. Phú Lâu Na: “Con sẽ nghĩ họ là những người hiền lành và tốt bụng vì họ không giết chết con!”.
 
Đức Phật: “Nhưng nếu họ giết ông, này Punna, ông sẽ nghĩ thế nào?”. Phú Lâu Na:”Con sẽ nghĩ rằng họ là những người hiền lành và tốt bụng vì họ giải thoát cho con khỏi cái thân xác thối tha này môt cách dễ dàng. Con biết rằng có nhiều tu sĩ đã hổ thẹn vì cái thân xác của mình, đã bối rối, chán nản, và các vị ấy đã tự tử bằng khí giới, đã dùng thuốc độc, đã tự treo cổ bằng dây thừng hay lao mình vào vực sâu!?
 
Đức Phật: “Này Phú Lâu Na, ông có thiện tâm, nhẫn nhục cao nhất. Ông đã có đủ “Bi, Trí, Dũng”, hãy đi đi mà dạy cho họ làm sao để họ được giải thoát như chính ông – ông đã giải thoát”.Qua mẫu chuyện nhỏ thuật lại cuộc trò chuyện giữa Đức Phật và Tôn giả Phú Lâu Na – một đệ tử lớn của Phật, khi Tôn giả cầu xin được đến xứ Sronàparanta để dạy đạo cho người xứ này; chúng ta vô cùng cảm phục đức “Bi, Trí, Dũng” của Ngài.
 
Sở dĩ Phú Lâu Na có được suy nghĩ, lời nói, và việc làm chân chính, kiên cường như thế, là vì Tôn giả đã sẵn có cái tâm an tịnh, trong sáng (Bi) cái nghị lực bền vững phi thường (Trí) lòng tin bất thối chuyển vào Đạo pháp (Dũng).
 
Ở ngài Phú Lâu Na, chúng ta thấy đã có đủ ba đức tính cốt lõi của Đạo là “Bi, Trí, Dũng”. do vậy, không sự xấu ác nào có thể khuất phục được ngài, cho dầu phải bỏ thân mạng, trong trách nhiệm cao cả hoàng dương Chánh pháp; quyết tâm chuyễn hóa và diệt trừ cái xấu ác, để Chánh pháp được lưu chuyễn, trường tồn; mang lại lợi lạc cho tất cả!
 
Nhìn lại thực tế, khi sự xấu ác chưa có sự “nóng nảy, bạo lực, dữ dằn”, mà đã có sự thối chuyển, tự hạ mình tuân theo, thì làm sao việc tu tập, và hoằng dương Chánh pháp có thể đạt được kết quả tốt? Sự sợ hãi, coi trọng thân tạm, hay vì chút lợi dưỡng, danh hảo, mà đánh mất cái “Dũng” cần thiết của người con Phật, thì Phật pháp làm sao hưng thịnh?!
 
Sự im lặng (hay làm ngơ) trước cái xấu ác cũng đồng nghĩa với sự thỏa hiệp yếu hèn! Đi xa hơn nữa, là sẽ vô tình tạo điều kiện dễ dàng cho cái xấu ác sinh trưởng nhanh hơn, ngày một nhiều và lớn mạnh hơn! Tỷ như loài cỏ dại mọc trong đám lúa, nếu không diệt trừ, nhổ tận gốc, thì một ngày kia cỏ dại phát triển gấp trăm ngàn lần, sẽ lấn át, cây lúa sẽ còi cọc và khô chết dần đi…
 
Tóm lại: Bi mà không Trí, là tà vạy! Trí mà không Dũng, là yếu hèn! “Bi Trí Dũng” nghe rất đơn giản, mà đã là một điều rất khó thành tựu ở một người con Phật chân chính trong thời đại ngày nay vậy! 
 

Tác giả bài viết: Chân Truyền