Thập trai là ăn chay mười ngày trong mỗi tháng. Kinh Ðịa Tạng, phẩm Như Lai Tán Thán nói: "Nầy Phổ Quảng! Trong các ngày: mùng 1, mùng 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29) của mỗi tháng, các tội được kết tập để định phần khinh trọng. Nếu chúng sanh đời sau, vào mười ngày trai, đối trước tượng Phật, Bồ Tát, Hiền, Thánh, tụng kinh nầy một biến, thì mỗi phương đông, tây, nam, bắc, trong vòng 100 do tuần, không các tai nạn".
...Trong suốt cuộc đời của ngài từ khi Đản sanh cho đến xuất gia, thành đạo và nhập Niết-bàn, ngài là một tấm gương sáng là đóa sen nở thơm ngát giữa biển đời “bẩn nhơ xấu đủ cả năm”. Trong từng phút giây có mặt ở thế gian, Ngài đều cho ta bài hoc quý báu từ thân - khẩu – ý. Nên nói: “Đức Phật – nhà đại giáo dục”...
Sách Luận Ngữ chép "Người quân tử cốt chăm lo cái gốc. Gốc bền vững thì Ðạo được sinh. Hiếu Ðễ chẳng phải là gốc làm người ư ?". Người quân tử cốt yếu là học tập nguồn gốc của Ðạo, chú tâm vào căn bản của đạo lý. Khi cái gốc được bền vững thì Ðạo phát sinh lá cành sum suê. Sự sinh trưởng của Ðạo cũng là sự lớn mạnh của rễ cây, là sự bền vững của gốc". "Hiếu Ðễ há chẳng phải là gốc làm người ư ?"
“Bát phong xuy bất động” (tám gió thổi không động) là một giai thoại vui, thâm thúy và tràn đầy thiền vị về mối thâm giao giữa thi hào Tô Đông Pha (1037-1101) và Thiền sư Phật Ấn (1032-1098).
Do vậy Bồ tát khởi tâm đại bi mong cứu vớt tất cả, và muốn thực hiện điều này thì phải cầu thành Phật mới đủ trí tuệ và phương tiện để cứu giúp chúng sinh như Phật Thích Ca đã làm. Vậy mong cầu ở chặng ba là cầu thành Phật, muốn thế phải phát Bồ đề nguyện và lập Bồ đề hạnh. Con đường của Bồ tát đạo bị bế tắt khi mà hành giả thối tâm bồ đề, trở lại mong cầu tự độ, giải thoát riêng mình vì thấy đường còn xa thăm thẳm. Nỗi lo sợ của người theo đuổi chặng ba chính là sợ chính mình thối thất tâm bồ đề .
“Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm (ly sân tầm và ly hại tầm) khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: Ly dục tầm (ly sân tầm và ly hại tầm) này khởi lên nơi Ta, không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến Niết-bàn.” (trang 264)
Trong tâm thức của con người chứa đựng rất nhiều hạt giống. Có những hạt giống dễ thương nhưng cũng có rất nhiều hạt giống không dễ thương; có những hạt giống làm Phật nhưng cũng có rất nhiều hạt giống làm chúng sanh.
Sanh ra trong cuộc đời, chúng ta vốn dĩ là đã đa mang một khối phiền não sanh tử luân hồi, quả báo cưu mang, thật biết bao lần không lối thoát. Con người sanh ra là di dục ái chúng sanh mà có, việc các Bạn lập gia đình là điều tất yếu, là việc riêng của Bạn, không liên quan gì đến việc quy y Tam Bảo
Thế nào là thừa tự Pháp, không thừa tự tài vật? Thế nào là thừa tự tài vật, không thừa tự Pháp? Phật kể câu chuyện để minh họa: Có hai Tỷ-kheo từ xa đến thăm Phật sau khi Phật vừa dùng bữa xong.
Hơi thở đưa oxy trực tiếp vào máu để lọc máu và nuôi máu, khiến cho máu tốt lành nuôi dưỡng các bộ phận trong cơ thể của ta, đồng thời thải những độc tố trong máu đi ra ngoài thân thể.Hơi thở là vậy, nên ta thở vào bao nhiêu là ta phải thở ra bấy nhiêu. Nếu ta thở vào, mà không thở ra, hay ta thở ra, mà không thở vào, thì sinh mệnh của ta không thể nào tồn tại.
Tùy là theo, hỷ là vui mừng. Tùy hỷ là vui mừng theo. Khi thấy bạn hay người thân làm điều lành hay việc tốt chúng ta phát tâm vui theo đó là tùy hỷ. Người làm lành vui bao nhiêu chúng ta vui bấy nhiêu. Người phát được niềm vui đó công đức bằng công đức người làm việc lành.
Kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc”. Đó là nhân cách của người học Phật. Vẫn sống giữa cuộc đời, phải đối mặt với cơm ăn áo mặc, bon chen danh lợi, nói chung bị vây quanh bởi tiền tài, danh vọng, sắc dục… mà người con Phật vẫn nỗ lực để luôn giữ mình trong sạch, không bị thói đời chi phối, vẩn đục. Để làm được điều này, trước hết bản thân mỗi chúng ta phải “tự tịnh kỳ ý”, tức làm sạch tâm ý của mình. Một khi tâm ý đã thanh tịnh thì mình có thể “Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian nhưng không bị nhấn chìm trong dòng xoáy dơ bẩn của thế gian”.
Gia đình đóng vai trò là tế bào của xã hội, nhưng bản thân nó lại giống như một xã hội thu nhỏ. Do vậy, quan hệ đạo đức trong gia đình là cái khởi đầu cho quan hệ đạo đức trong xã hội. Trong kinh Thi Ca La Việt (Sìgalovàda sùttra), Phật dạy bổn phận làm chồng có 5 điều đối với vợ và làm vợ cũng có 5 điều đối với chồng; bổn phận làm cha mẹ có 5 điều với con cái và con cái cũng có 5 điều với cha mẹ. Chẳng hạn:
Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy về 6 nguyên nhân gây phung phí tài sản cần tránh là: Đam mê các loại rượu, du hành đường phố phi thời, la cà đình đám hí viện, đam mê cờ bạc, giao du ác hữu, quen thói lười biếng.
Đây là một nét mới mà Ban Đại diện đã mạnh dạn đưa vào chương trình tu tập của Phật tử tại gia vùng cao. Sở dĩ lâu nay quý Phật tử đã chuyên tu và đã thích nghi về Pháp môn Tịnh Độ, bởi lý do khách quan quý Đạo hữu ở đây phần đông là lớn tuổi, và bà con dân tộc thiểu số.
Chắp tay chào nhau là một phương pháp thực tập chính niệm. Chính lúc Phật còn tại thế, Phật cùng chư Tăng khi gặp mặt nhau trong chùa, ngoài đường, giữa rừng, hay dưới gốc cây đều chắp tay chào nhau trong niệm cảm thông và chân thành. Cái chắp tay từ đó trở thành một biểu tượng thiêng liêng cao đẹp của Như Lai cùng chúng đệ tử xuất gia của Như Lai.
Dù bạn là Phật tử hay không thì cũng phải mưu sinh bằng một công việc gì đó, bất luận công việc gì, buôn bán hoặc công chức, nếu bạn muốn ăn ra làm nên, mọi người quý mến thì không thể thiếu tính cách thật thà, vui vẻ. Tôi là một người Phật tử, rất tâm đắc với câu đối trong phòng khách của tịnh thất Viên Quang có liên quan đến điều này: “Nói hay, hay nói, nói lời hay/ Làm phải, phải làm, làm việc phải”.
Bạn tự do khám phá và tiếp xúc với sự sống mới mẻ đang diễn ra trong phút giây thực tại. Và khi ấy, cho dù có nhiều chuyện trắc trở éo le xảy đến, bạn vẫn đầy đủ sự trầm tĩnh, sáng suốt và nhạy bén để ứng xử với thái độ an bình và tự tại, mà không tỏ ra lo sợ, tránh né hoặc tìm cách trừng phạt đối phương để bảo vệ danh dự, uy tín theo lối mòn phản kháng xưa nay của bản ngã.
Pháp thoại này, ngoài việc thiết lập nguyên tắc hòa hợp và thanh tịnh của chúng Tăng trước khi bố tát, Thế Tôn còn đưa ra một phương pháp thanh lọc nhằm tịnh hóa Tăng già. Đó là không sống chung, cách ly và thậm chí trục xuất những phần tử phi phạm hạnh, không trong sạch, ác giới ra khỏi chúng Tăng. Đây là một biện pháp tích cực để cứu vãn và duy trì sự hòa hợp, thanh tịnh trong Tăng chúng.
Trong các việc làm phước thiện thì biên chép và ấn tống kinh điển luôn được khuyến khích và ca ngợi, vì lợi lạc của nó đối với người làm phước thật nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn. Thời xưa, khi các phương tiện ấn loát còn thô sơ thì chép kinh thành nhiều phiên bản để tụng đọc là hình thức phổ biến.