Có Thế Giới Khác Không?

Đăng lúc: Thứ sáu - 05/10/2012 13:02 - Người đăng bài viết: Diệu Thành
Có Thế Giới Khác Không?

Có Thế Giới Khác Không?

ĐOÀN VĂN THÔNG
(CÓ PHẢI QUẢ ĐẤT CHÚNG TA LÀ HÀNH TINH ĐỘC NHẤT CÓ SỰ SỐNG HAY CÒN CÓ NHIỀU THẾ GIỚI KHÁC NỮA TRONG VŨ TRỤ BAO LA VÔ TẬN?)
 
LỜI MỞ ĐẦU
Từ ngàn  xưa, nhiều tôn giáo đã nói đến những cõi giới khác, những thế giới khác.
Đối với con người thì một số lớn tin rằng ngoài thế giới mà con người và vô số loài sinh vật đang sinh sống còn có những thế giới khác nữa – trong khi một số người lại cho rằng chỉ có quả đất là thế giới duy nhất có sự sống mà thôi.
Đối với các nhà khoa học thì trước đây, hầu như các nhà khoa học đều bác bỏ luận cứ cho rằng trong vũ trụ có nhiều thế giới khác có sự sống.
Tuy nhiên ngày nay khoa học phát triển đến độ bùng nổ nhất là lãnh vực Thiên văn, vũ trụ, con người ngày càng dễ có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các hành tinh – tuy chỉ là những hành tinh trong thái dương hệ bằng những máy móc tinh vi hơn nên đã mang lại nhiều khám phá lớn lao kỳ diệu bất ngờ hơn - Từ đó đã làm đổi thay ý nghĩ của nhiều nhà khoa học về vấn đề thế giới khác ngoài quả đất.
Khi biên soạn tập sách nhỏ này, tác giả không ngoài mục đích là đưa ra một số vấn đề, sự kiện liên quan đến những cõi giới khác ngoài quả đất mà nhiều người đã từng thắc mắc.. Hy vọng những gì tác giả rút tỉa được từ những tư liệu trung thực qua nhiều nguồn khác nhau sẽ giúp quý vị giải đáp phần nào thắc mắc ấy.
 
  Soạn giả
ĐOÀN VĂN THÔNG
  (Mùa hè – 2002)
 
CÓ AI NGOÀI ĐÓ KHÔNG ?
 
Nhiều nhà Thiên văn trong những lúc miệt mài chăm chú theo dõi và quan sát vũ trụ đôi khi đã tự hỏi thầm trong cái bao la sâu thẳm đầy sao rằng: Có ai ngoài đó không?
Câu hỏi đã từng được nêu ra nhưng quả thật chưa có lời đáp lại
Nhưng dù vậy, ngày nay câu hỏi ấy đã trở thành đề tài tranh luận và nghiên cứu của các nhà thiên văn khắp thế giới. Hiện nay đề tài gây sôi nổi hơn cả là trong vũ trụ bao la sâu thẳm có những sinh vật thông tuệ hay không ? Hoặc có những nền văn minh nào khác ngoài quả đất không ?
Vấn đề trở nên quan trọng đến độ hàng năm đều được đem ra bàn thảo trong hội nghị quốc tế tổ chức hàng năm tại Luân Đôn Anh quốc
Các khám phá gần đây đã cho biết rằng vũ trụ chứa đầy  những thông tin, những tín hiệu - Một khi khoa học kỹ thuật của con người về nghành thiên văn phát triển cao hơn thì sẽ dễ dàng nhận được những tín hiệu từ vũ trụ - những tín hiệu ấy vô cùng quan trọng, đó cũng là mấu chốt để nắm bắt được vấn đề liên quan tới câu hỏi: Có ai ngoài đó không? Hay: Có thế giới khác ngoài quả đất không ?
 
NHỮNG NỔ LỰC THU TÍN HIỆU TỪ KHÔNG GIAN
 
Báo Life phát hành số đặc biệt vào năm 1992 với chủ đề tương tự như chúng ta vừa nêu trên: CÓ AI NGOÀI ĐÓ KHÔNG ? (IS ANYBODY OUT THERE?) một đề tài càng làm dấy lên những tranh luận, bàn bạc đầy tò mò háo hức và hồi hộp về một sự kiện là nếu một mai con người trên quả đất biết được ngoài mình ra còn có những nền văn minh khác, sự sống khác bên cạnh thì họ sẽ nghĩ gì? có thái độ ra sao cũng như sẽ phải cư xử như thế nào khi có chạm trám, gặp gỡ? Vv...
Vấn đề đ ược khơi dậy sau khi một viễn vọng kính vĩ đại của Hoa Kỳ được đặt ở ngọn núi Arecibo thuộc Puerto Rico – Đó là một đĩa Anten khổng lồ được đặt hướng về một khoảng cách với mặt quả đất 400 mười nghìn tỷ năm ánh sáng. Nơi đó là ngôi sao có số hiệu thiên văn là GL.5-IA để thu tín hiệu 
Uỷ ban khoa học Không gian Hoa Kỳ đã lưu tâm tới vấn đề này tương tự như mối quan tâm của chính phủ Nga – Tuy nhiên, nước Mỹ giàu mạnh lại quy tụ nhiều nhà khoa học không gian lỗi lạc nên đã tiến những bước khá dài trong lãnh vực nghiên cứu, khám phá những bí ẩn trong vũ trụ
Năm 1992, nữ Tiến sĩ Thiên văn học Jill Tarter đã được đề cử  là người cầm đầu nhóm khoa học gia vũ trụ lừng danh nước Mỹ có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu, thu nhận những sự kiện liên quan tới nền văn minh ngoài quả đất, những sinh vật thông tuệ sống ở những thế giới khác… đồng thời nghiên cứu thăm dò về vấn đề Người Hành Tinh
Nữ Tiến sĩ Jill Tarter khi nhận nhiệm vụ đã cho đặt ngay tại Goldston Tracking gần Barstow (California) một Viễn vọng kính khổng lồ thứ 2 hướng vào không gian vũ trụ để hợp đồng với viễn vọng kính ở Puerto Rico thu nhận từng chi tiết những tình huống của vũ trụ lẫn các tín hiệu phát ra từ vũ trụ
Thật sự thì chủ đích của chương trình vĩ đại này không ngoài mục đích là tìm kiếm những sinh vật thông tuệ đang sống ở hành tinh nào đó bên ngoài quả đất. Nasa Seti là tên của chương trình này với sự hợp tác của hơn 100 nhà bác học lỗi lạc để thực hiện chương trình vĩ đại Nasa Seti mà chi phí tài trợ trên hằng trăm triệu đô la. Ngoài ra các kỷ thuật hiện đại đã giúp thu nhận và phân tích các tín hiệu từ vũ trụ 
Tưởng cũng nên biết qua là nhà thiên văn học lỗi lạc Frank Drake đã thu được nhiều tín hiệu suốt trong 32 năm - Với lượng thông tin thu được trong thời gian dài như vậy nếu so với máy móc hiện đại sử dụng trong chương trình Nasa Seti hiện nay thì chỉ cần thu lại trong 3 ngày mà thôi
 
LỜI TUYÊN BỐ BỊ CHẾ NHẠO
 
Thật ra không phải chỉ có nữ tiến sĩ Jill Tarter là người nghĩ và tin rằng ngoài quả đất có những hành tinh có sự sống mà trước đó nhà bác học Frank Drake, một nhà thiên văn học lỗi lạc đã từng tuyên bố một cách nghiêm túc rằng: Quả đất không phải là hành tin duy nhất trong vũ trụ có sự sống mà còn rất nhiều hành tinh khác trong vũ trụ có sự hiện hữu của những sinh vật. Theo ông thì: “đã từ lâu có rất nhiều sinh vật thông tuệ trong vũ trụ đã gởi cho loài người chúng ta trên quả đất biết bao tín hiệu – đó là những thông điệp đầy thân thiện muốn tiếp xúc làm quen với chúng ta nhưng tiếc thay chúng ta chẳng có cách gì khả dĩ nhận ra họ.. Đã đến lúc chúng ta cần hướng vào vũ trụ lắng nghe và đón nhận những tín hiệu của họ..”
Mặc dù Drake là một nhà thiên văn kỳ cựu nhưng ông vẫn bị nhiều nhà khoa học không riêng tại Hoa kỳ mà còn tại các quốc gia khác chê cười chế nhạo khi nghe ông phát biểu điều đó - Điều mà người không tin gọi là ngộ nghĩnh, mơ hồ, buồn cười.
Tuy nhiên, nhà bác học Drake không lẻ loi, nhiều người đã đồng ý với ông, trong đó có cả nữ tiến sĩ lừng danh Thiên văn học là Jill Tarter và ngày càng nhiều đồng nghiệp hổ trợ
 
CUỘC NGHIÊN CỨU KHÁM PHÁ ĐẦY KHÓ KHĂN
 
Ngoài một số lớn nhà khoa học chống đối chương Seti vì phản bác, không tin rằng có nền văn minh khác ngoài quả đất, chương trình Seti còn gặp phải sự giới hạn về ngân sách đài thọ và quan trọng nhất là sự khó khăn trở ngại khi nghiên cứu
Theo các nhà khoa học không gian thì vũ trụ quá bao la sâu thẳm, quả đất chỉ như một hạt bụi trong lòng đại dương nên việc thăm dò, thu nhận tính hiệu qua khoảng không gian vô tận thật quá mong manh
Chỉ riêng trong giải ngân hà của chúng ta thôi cũng có tới 400.000.000.000 ngôi sao rồi và đường kính ngân hà này so với những ngân hà khác trong vũ trụ thì quá nhỏ nhoi - ấy vậy mà cũng dài tới 100.000 năm ánh sáng (nếu tốc độ ánh sáng trong 1 giây đi được 200.000 cây số thì một năm sẽ đi được 6000.000.000.000 dặm.) thì thử hỏi làm sao ta có thể nghe, thấy, biết, thu nhận được những động tĩnh, âm thanh, tín hiệu hay bức xạ phát ra từ những nơi xa xôi diệu vợi ấy được?
Những nhà khoa học phản bác chương trình Seti đã nêu thí dụ: Nếu giả sử chúng ta phát đi thông điệp vào vũ trụ tới chòm sao Hercule từ năm 1993 thì phải mất gần 60.000 năm mới nhận được tín hiệu đáp lại nếu như có sinh vật thông tuệ nơi đó chịu đáp lời ngay
 
QUYẾT TÂM THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH SETI
 
Biết sự thật khó khăn trở ngại như thế nhưng nhóm khoa học gia của chương trình Seti đã giới hạn trong giai đoạn đầu của cuộc khảo cứu – Nghĩa là chỉ theo dõi, thu nhận những tín hiệu từ những chòm sao gần Thái dương hệ của quả đất trước đã
Các khoa học gia trong giai đoạn đầu đã khởi sự dò tìm sự hiện hữu của sinh vật, nhất là những người thông minh ngoài quả đất trong giới hạn khoảng một nghìn sao có khoảng cách gần quả đất độ 100 năm ánh sáng thôi - Với khoảng cánh này, những kỹ thuật hiện đại qua những viễn vọng kính khổng lồ ngày nay đã có thể thu được nhiều tín hiệu phát ra từ các sao vừa kể
Các báo cáo khoa học và kỷ thuật về lãnh vực thiên văn hiện nay cho biết do sự cải tiến không ngừng nên nhiều máy thu tín hiệu có năng suất diệu kỳ là có thể thu được các tín hiệu yếu ớt đến độ chỉ dưới một watt mà thôi và phát ra từ một khoảng cách xa tới 6 tỷ dặm
Ngoài ra, dựa vào thời gian dài đằng đẳng mà tín hiệu phát đi theo khoảng cách xa, các nhà thiên văn đã hy vọng là ngày nay con người trên quả đất sẽ có cơ may nhận được nhiều tín hiệu, thông tin trong vũ trụ - Những tín hiệu mà có thể đã phát đi từ hàng tỷ năm trước thì nay mới đến - Nữ tiến sĩ Jill Tarter cho biết như sau: Nếu ta tin có những nền văn minh ngoài quả đất chúng ta đang sống thì chắc chắn họ đã tìm hiểu những nền văn minh ngoài nơi họ ở - chúng ta có lẽ cũng đã được họ nhắm tới hay nghĩ tới và cũng đã gởi tín hiệu cho chúng ta từ thuở xa xưa, có thể trước khi loài người xuất hiện. Và từ đó tới nay cũng đã đủ lâu để con người có thể nhận được những tín hiệu thăm dò ấy trong những thời gian gần đây..
 
NGƯỜI QUẢ ĐẤT GỞI TÍN HIỆU VÀO KHÔNG GIAN
 
Đồng thời với việc thu nhận tín hiệu từ không gian, các nhà khoa học thiên văn đã gởi vào vũ trụ những tín hiệu của quả đất bao gồm cả những hình ảnh chứng tỏ rằng: “Chúng tôi đang hiện hữu nơi hành tinh này và trông chờ tín hiệu thông tin từ quý bạn.”Những tín hiệu ấy gồm đủ loại và dưới nhiều hình thức -  Tín hiệu được chuyển vào không gian thường liên tục hay cách quảng – Các nhà thiên văn học hy vọng rằng đến đời con cháu chắc chiu chúng ta thì có lẽ chúng sẽ nhận được những tín hiệu trả lời –
 
VẤN ĐỀ THỜI GIAN VÀ KHOẢNG CÁCH TRONG VŨ TRỤ KHÔNG GIAN
 
Tuy nhiên cũng có thể do kỷ thuật loan truyền tín hiệu cực kỳ nhanh nhờ các máy móc tân kỳ hiện đại, các tín hiệu từ quả đất chuyển vào vũ trụ sẽ sâu hơn, xa hơn và nhanh hơn nên nếu có nền văn minh ngoài quả đất thì chắc chắn họ sẽ nhận, bắt được những tín hiệu của loài người trên quả đất nhanh hơn, sớm hơn
Khi nói đến vấn đề thời gian và khoảng cách trong vũ trụ, một số nhà thiên văn lại cho rằng: Khoảng cách mà chúng ta thường tính toán suy nghĩ thật ra chỉ dựa vào những vận tốc mà loài người biết một cách giới hạn trên quả đất mà con người sinh sống thôi. Biết đâu còn có loại vận tốc siêu đẳng khác mà cho tới nay con người vẫn chưa biết rõ
Vì thế trong tương lai, chắc chắn con người sẽ khám phá ra loại vận tốc đó – Trong khi ấy thì tại những thế giới khác, những nền văn minh khác chắc chắn sẽ có những tốc độ khác xa quả đất và nếu họ biết tốc độ mà loài người thường nhắc hay biết tới thì có lẽ họ sẽ kinh ngạc mà cho rằng tại sao nơi xa xôi ấy, nền văn minh của loài người trên quả đất lại quá chậm chạp như thế?
 
CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐÃ TRUYỀN VÀO VŨ TRỤ NHỮNG TÍN HIỆU RA SAO?
 
Thật ra thì từ lâu, những khoa học gia thuộc trung tâm khảo cứu Vũ trụ của Hoa Kỳ đã thực hiện một sự kiện lịch sử là gởi vào không gian một thông điệp thân thiện để giới thiệu với những ai thuộc nền văn minh ngoài quả đất hay sinh vật thông tuệ nơi thế giới khác biết loài người đã và đang hiện hữu trên quả đất 
Cơ quan không gian Hoa Kỳ đã gởi các thông điệp đơn giản dễ hiểu vào vũ trụ - Đó là những tấm nhôm, trên đó vẽ những hình ảnh liên quan tới con người (nam và nữ) và vị trí mà quả đất đang định vị
Đến năm 1974, một loại thông điệp khác lại được chuyển vào không gian nhắm vào chòm sao Hercules. Chòm sao này cách xa quả đất tới 24.000 năm ánh sáng. Nơi đây nhiều nhà thiên văn hy vọng có những nền văn minh siêu việt. Lần này thông điệp được máy computer thực hiện và gởi vào vũ trụ qua viễn vọng vô tuyến khổng lồ Arecibo - Bức thông điệp là những hình kỷ hà như mẫu thêu - Nếu nhìn kỷ sẽ thấy trên đó là biểu hiện của sơ đồ hình xoắn của chuổi xoắn  kép DNA, phương trình hóa học của DNA, các tín hiệu theo mã số nhị phân. Ngoài ra còn có hình ảnh biểu tượng một người đang đứng, hình ảnh của Thái dương hệ gồm mặt trời và 9 hành tinh cùng với hình ảnh của một viễn vọng kính khổng lồ
Sở dĩ lần gởi này, hình ảnh trong bảng thông điệp lại khác trước là do các nhà khoa học cho rằng, một khi những người thông tuệ trong vũ trụ nhận được thông điệp này họ sẽ hiểu rõ ràng hơn về trình độ kiến thức của con người đã gởi thông điệp cho họ
 
TẠI SAO CHÚNG TA CẦN PHẢI TÌM KIẾM NHỮNG NỀN VĂN MINH NGOÀI QUẢ ĐẤT
 
Nhiều người khi nghe qua hay theo dõi những chương trình nghiên cứu thăm dò tìm kiếm những sinh vật thông tuệ ngoài quả đất hay những nền văn minh trong vũ trụ thì lại chê cười và cho là điều vô bổ, sai lầm. Lý do là vì theo họ, việc tìm kiếm ấy chẳng khác nào mò kim đáy biển. Hơn nữa, ngay trên quả đất này việc nghiên cứu tìm hiểu con người không thôi cũng chưa đi tới đâu nhưng lại đi tìm cái không tưởng xa vời…
Tuy nhiên đối với các nhà thiên văn vũ trụ thì đầu óc họ rộng mở như không gian bao la, khi quan sát cái mênh mông sâu thẳm diệu kỳ của không gian hầu như không biên giới ấy, họ không khỏi thắc mắc rằng phải chăng trong cái vũ trụ lớn lao vĩ đại ấy, chắc chắn quả đất không thể là hành tinh duy nhất có sinh vật sống? Từ đó còn phát sinh ra bao vấn đề quan trọng thiết thân khác cho loài người
Thứ nhất là: Lịch sử của một số quốc gia xưa kia vì bảo thủ hay lý do nào khác đã không cởi mở, không chịu giao tiếp với các nước ngoài nên đã không tiến bộ, không thể phát triển nhanh. Việt Nam Trung Quốc là những thí dụ điển hình vì vấn đề bế quan tỏa cảng khiến đất nước chậm tiến trong một thời gian dài. Đó là xét vấn đề ngay trên quả đất -  Từ đó nếu xét rộng ra thì quả đất nằm trong vũ trụ, mà vũ trụ thì chứa đựng biết bao tỉ tỉ sao và hành tinh – Đó là những láng giềng gần xa của quả đất - Vậy người sống trên quả đất cần phải biết rõ võ trụ và nhất là cần tìm kiếm những sinh vật thông tuệ hay những nền văn minh ngoài quả đất – Đó là điều vô cùng quan trọng. Ta hãy nghe Tiến sĩ Vật lý Không gian Carl Sagan mở đầu buổi khánh thành Thiên văn đài khổng lồ ở Galdstone như sau:
Loài người được xem như là phát triển vượt mức về khoa học kỷ thuật – Nhưng chúng ta sẽ gặp sai lầm lớn nếu không nghĩ tới vấn đề tìm kiếm những nền văn minh khác nếu có bên ngoài quả đất của chúng ta. Vì nếu khám phá được thì đây là một khám phá khoa học kỳ diệu vô giá về khoa học - Bởi lẽ biết đâu nhờ đó mà ta mới vượt qua được giai đoạn ấu trĩ về khoa học kỹ thuật của loài người chúng ta mà bấy lâu ta cứ tưởng là tuyệt luân.”
Câu nói đó chẳng khác nào nhắc nhở quả đất đừng bế quan tỏa cảng với vũ trụ không gian bên ngoài
Thứ hai là từ lâu quả thật đã có một số quốc gia quyết tâm nghiên cứu khám phá vũ trụ và vấn đề tìm kiếm những sinh vật thông tuệ ngoài quả đất rất được chú trọng. Đối với Hoa Kỳ thì đây là vấn đề sinh tử - Lý do là đất nước nào khám phá ra sự kiện có sự hiện hữu của sinh vật khác trong vũ trụ hay nền văn minh khác ngoài quả đất thì quốc gia ấy sẽ ở thế thượng phong. Khi đó quốc gia ấy sẽ nghiên cứu tìm hiểu những khoa học kỷ thuật mới lạ tân kỳ của nền văn minh ấy và sẽ thành bá chủ trên quả đất, vượt xa sức tiến về khoa học kỷ thuật của các nước khác nhiều thế kỷ
Do đó mà chúng ta không lạ gì chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu hằng chục tỷ đô la vào các công trình nghiên cứu và thám hiểm vũ trụ không gian và nhất là đặc trách riêng một trung tâm chuyên nghiên cứu những nền văn minh ngoài quả đất
 
AI LÀ NGƯỜI THỰC HIỆN ĐẦU TIÊN VIỆC GỞI THÔNG ĐIỆP VÀO VŨ TRỤ?
 
Carl Sagan là nhân vật có thể xem là có công đầu trong ý nghĩ và việc làm của chương trình thám hiểm không gian, liên lạc với những nền văn minh ngoài quả đất. Carl Sagan nguyên là phân khoa trưởng Vật lý thiên văn vũ trụ tại Cornell University - một đại học lừng danh của Mỹ chuyên nghiên cứu khám phá vũ trụ không gian – chính nơi đây đã sản sinh ra loại kính thiên văn nổi tiếng, đó là kính thiên văn Hubble
Ý nghĩ rằng ngoài quả đất có nhiều thế giới khác có sự sống mà Carl Sagan đã công bố cũng đã làm biết bao nhà khoa học phản bác chê bai – Tuy nhiên về sau chính một số nhà khoa học trong số những người phản đối Carl Sagan lại tỏ ý tán thành ý kiến có những nền văn minh ngoài quả đất
Chính cơ quan NASA (National Aeronautics and Space Administration) sau khi chế tạo được loại phi thuyền siêu tốc Pioneer 10 và 11 đã nghĩ đến vấn đề phóng một phi thuyền bay cực nhanh vào dãy ngân hà (Milky Way) và nhân đó sẽ gởi những tín hiệu cho những nền văn minh nào đó, nếu có và hiện hữu trong dãy ngân hà xa xôi diệu vợi ấy biết rằng con người trên quả đất muốn giao tiếp thân thiện với họ. Thế là nhà thiên văn Carl Sagan bắt tay vào việc giúp NASA hoàn thành công tác có một không hai đó. Chính tấm kim loại Nickel có khắc hình hai người (đàn ông và đàn bà) cùng quả đất và các hành tinh trong Thái dương hệ của quả đất đã được Carl Sagan phát họa – Đó chính là bức thông điệp của quả đất gởi đến các nền văn minh ngoài quả đất. Tấm kim loại đó được gắn vào vỏ phi thuyền Pioneer để phóng vào vũ trụ
Tưởng cũng nên biết thêm là ngoài tấm thông điệp bằng kim loại vừa nói trên, phi thuyền Pioneer còn mang theo nhiều thứ khác hầu giúp các nền văn minh khác khi nhận được thông điệp sẽ dễ dàng biết thêm trình độ của con người trên quả đất ra sao. Do đó mà phi thuyền còn mang theo máy truyền hình và máy ghi âm, phát âm – Đặc biệt nhất là âm thanh của lời chào của các nước trên quả đất cùng những tiếng nhạc, lời ca nổi tiếng và hình ảnh sống động về sự sinh hoạt của con người tại các thành phố trên thế giới..
Cơ quan SETI (Extraterrestrila Intelligence - hay còn là chữ viết tắc của Search for Extra-ter-restrial Intelligence) mà chúng ta vừa nói từ trước đã được hình thành từ những ý nghĩ và quyết định táo bạo này. Cho đến nay, cơ quan nghiên cứu tìm kiếm những nền văn minh ngoài trái đất này đã quy tụ gần nửa triệu hội viên phần lớn là những người có kiến thức và đầu óc mở rộng. Một số lớn các quốc gia trên thế giới cũng gia nhập vào - Carl Sagan bận rộn suốt ngày, nhiều quốc gia đã mời ông tới diễn thuyết về vấn đề những nền văn minh ngoài quả đất. Ông luôn tin tưởng rằng bên ngoài trái đất mà loài người chúng ta đang sinh sống và phát triển còn có những thế giới khác, những nền văn minh khác nữa. Ngay tại Vatica, trước các vị Hồng Y, nhà Thiên văn Vật lý tài hoa cũng nhấn mạnh tới sự hiện hữu cũa những nền văn minh ngoài trái đất
 
MỘT SỐ KHÁM PHÁ BAN ĐẦU VỀ SỰ SỐNG NGOÀI QUẢ ĐẤT
 
Cho đến nay, phần lớn các nhà khoa học đã không còn có thái độ coi thường hay phản bác những ý tưởng về những nền văn minh khác ngoài quả đất hay có sự sống nào đó trong vũ trụ - Vấn đề càng trở thành nghiêm túc hơn khi cơ quan NASA công bố một số kết quả thử nghiệm môi trường đất đai của Hỏa tinh cho thấy nơi đây đã từng CÓ SỰ SỐNG

Theo khám phá của cơ quan NASA thì họ tìm thấy trên khối thiên thạch có dấu tích những vi khuẩn có hình dáng và sinh hoạt giống như vi sinh vật ở quả đất. Khám phá lớn lao này của cơ quan không gian Hoa Kỳ đã làm thế giới ngạc nhiên kể cả các nhà khoa học. Đó là ngày 7 tháng 8 năm 1996 - Tổng thống Hoa Kỳ là Bill Clinton đã tức thời lên tiếng ca ngợi thành quả diệu kỳ mà cơ quan NASA vừa khám phá. Tuy nhiên không phải vì chút khám phá ấy mà khoa học khẳng định ngay là Có Sự Sống ngoài quả đất – Lý do là nhiều nhà khoa học khác thận trọng nêu câu hỏi: “mẫu thiên thạch có vi sinh vật ấy có thể nào xuất xứ từ quả đất hay không?
Mặc dầu có vài lý luận tỏ ra nghi ngờ, nhưng trước đó cơ quan NASA còn khám phá ra nguồn nước trên Hỏa tinh nên đó cũng là yếu tố để có thể đi đến kết luận là có sự sống trên Sao Hỏa trước đây. Theo báo cáo này thì vệ tinh MGS đã chụp hình và gởi về quả đất những bức ảnh chụp được ở Hỏa tinh cho thấy, qua phân tích có trữ lượng nước nằm trong băng
Rồi ngày 31 tháng 7 năm 2001, lại thêm khám phá mới mẻ nữa của nhóm khoa học gia nhiều nước trên thế giới đưa ra trong cuộc hội thảo của Hiệp hội Kỷ sư Quang học Quốc tế nhóm tại San Diego (California – Hoa Kỳ) là có bằng chứng về một nhóm vi khuẩn sống trong tầng Bình lưu ở cao độ 41 cây số hoàn toàn nằm ngoài giới hạn của các dòng đối lưu từ mặt đất lên tới không trung. Các vi khuẩn trong vũ trụ được thu thập từ những mẫu khí của tầng bình lưu này
Theo giao sư tiến sĩ David Lloyd thì ông đã cẩn thận nuôi cấy các vi sinh vật này nhưng không thành công và theo ông thì điều đó đã chứng tỏ rằng loài vi sinh vật này không phải có nguồn gốc từ quả đất mà là ở nơi nào đó ngoài quả đất.
Theo tính toán của một số lớn nhà khoa học thiên văn thì mỗi ngày quả đất chúng ta đang sinh sống có khoảng 0,3 tấn vi khuẩn rơi xuống quả đất
Các nhà khoa học thuộc cơ quan NASA đã cho biết rằng: Rồi qua những khám phá trong tương lai không xa sẽ chứng minh một cách đúng đắn rằng: Quả đất không phải là một hành tinh đơn độc có sự sống trong không gian vũ trụ mà trái lại quả đất có rất nhiều hàng xóm láng giềng, đó là những nền văn minh khác ngoài quả đất…
 
NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA NHỮNG SINH VẬT NGOÀI QUẢ ĐẤT
 
Khi nhiều người và luôn cả một số lớn nhà khoa học hiện nay tin rằng có sinh vật thông tuệ hiện hữu ngoài quả đất thì điều quan trọng cần để chứng minh vấn đề đó là một số bằng chứng
Xét từ cổ đại đến nay, các tư liệu dùng làm bằng chứng cho sự hiện hữu của những sinh vật ngoài quả đất ngày càng nhiều thêm.
Những hình ảnh tư liệu từ thời đại cổ xưa đã cho biết là có vô số người từng trông thấy những vật lạ, những sinh vật dị kỳ xuất hiện trong vũ trụ hay từ vũ trụ vào quả đất. Dưới đây là một số sự kiện được ghi lại từ các tư liệu văn khố trên khắp thế giới từ cổ đại tới nay:
-Nhiều nơi tại nhiều quốc gia thường lưu lại một số hình ảnh chạm khắc từ thời cổ xưa như trên vách núi, vách các hang động về hình ảnh của những sinh vật kỳ lạ hay những hình kỷ hà chỉ dấu mà ngày nay các nhà khoa học cho là những dấu hiệu chỉ báo cho phi thuyền của người hành tinh đáp xuống quả đất. những hình ảnh ấy xuất hiện cách đây khoảng mấy chục nghìn năm và được trông thấy nhiều ở vùng Peru Nam Mỹ, Trung quốc, Úc châu…
-Các vật lạ được cư dân ở nhiều quốc gia thời xưa cổ trông thấy ghi lại đều có dạng thể giống như những khối cầu, hình đĩa hay hình cái cột lửa sáng lòa… Những vật lạ này bay ngang bầu trời của các nước như Nhật Bản, Ai Cập, Ý, Pháp, Anh, Thụy Sĩ, Mễ Tây Cơ, Vịnh Ba Tư, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Phi Châu, Ba Lan, Nga… Nhiều tài liệu liên quan tới những vật lạ vừa kể đã được một học giả người La Mã thời xưa tên là Julius Obsequens ghi lại trong tập sách cổ nhan đề Prodigorium Liber
-Khi khinh khí cầu và máy bay ra đời, những phi công và phi hành đoàn cũng cho biết là họ đã thấy những vật lạ xuất hiện trong bầu trời - Những vật này có khi bay rất nhanh, có khi đảo qua đảo lại như quan sát thăm dò và sau đó thì biến mất rất nhanh
Nhiều phi công lái máy bay chiến đấu có lần trông thấy vật lạ xuất hiện thật gần trong vùng anh ta đang bay - Thấy vật lạ như muốn phóng tới gần mình, viên phi công vội vã bấm nút điều khiển cho hỏa tiễn bắn vào vật lạ nhưng hỏa tiễn không hoạt động – Báo cáo này được ghi lại rõ ràng và được lưu trữ tại viện nghiên cứu không gian của Iran và Hoa Kỳ cũng như Pháp, Đức, Ý, Nhật, Anh…
-Các hình ảnh về các vật lạ xuất hiện trong bầu trời ban ngày cũng như ban đêm đã được vô số người trên khắp thế giới chụp được và phổ biến rộng rãi. Trong các ảnh chụp còn lưu lại hiện nay có một bức ảnh rất đặc biệt chụp được vào năm 1710, trong một buổi lễ rửa tội, bỗng xuất hiện trên bầu trời một vật thể bay hình đĩa chiếu xuống 4 tia sáng chói lòa. Bức ảnh lạ lùng này hiện nay vẫn còn lưu trữ tại viện bảo tàng Fitzwilliam tại Cambridge (Anh Quốc)
-Nhiều tài liệu cổ xưa tại các xứ thuộc vùng Nam Mỹ còn lưu lại đến ngày nay cho thấy có những công trình hay những hình vẽ, chạm khắc mà người ngày nay nhìn vào thấy ngay là vào thời đại đó không có dân tộc nào có lối phục sức, có đủ khả năng chế tạo và sử dụng loại dụng cụ siêu đẳng như đã mô tả trong các tài liệu ấy cả. Như các nhà khảo cổ khám phá thấy một căn phòng bằng đá Ở Peru với những cấu trúc sắp xếp hoàn toàn giống cấu trúc trong một khoang lái của phi thuyền không gian
 
NHỮNG NGƯỜI THÔNG MINH TỪ VŨ TRỤ ĐÃ TỪNG ĐẾN QUẢ ĐẤT CHÚNG TA?
 
Các nhà sử học, Địa chất học và Khảo cổ học đã vô cùng ngạc nhiên khi khám phá thấy nền văn minh của dân tộc Sumerian (cách đây trên 6000 năm) cao hơn cả nền văn minh Ai Cập – Vùng đất này xưa kia ở cận vùng Mesopotamia mà nay là Iraq - Người dân thời ấy có nguồn gốc phát sinh từ vùng cao nguyên của Thổ và Iran. Dân tộc này phát triển cao về bộ môn toán học
Những tài liệu và dấu tích còn lưu lại cho thấy nơi đây có vô số hình ảnh khắc chạm trên đá trình bày những biểu đồ như đường di chuyển của các phi thuyền không gian, những hình ảnh của những người có trang phục giống phi hành gia hiện đại, những mủ đội đầu có cần Anten, mũ bay bảo vệ - và đặc biệt hơn nữa là còn có hình phát họa về một phần của phi thuyền đang đáp xuống vùng đất Sumarian. Ngoài ra còn có hình ảnh những hỏa tiển - Những tài liệu khác còn ghi là các nhà thông thái Sumarian cho rằng Thái dương hệ của quả đất chúng ta có tới 12 hành tinh và những vị thần linh đã từ nơi đó tới giúp dân tộc này – Theo các nhà khoa học thì các thần linh ấy phải chăng là các sinh vật ở hành tinh thứ 12 đã từng đi lại quả đất và giúp dân tộc Sumarian phát triển về nhiều lãnh vực?
Về trường hợp này thì có 2 giả thuyết chính, một cho rằng có thể thời đó, nơi đây cư dân có trình độ phát triển để rồi sau đó bị diệt vong do một nguyên nhân nào đó như sóng thần, lũ lụt, động đất, hỏa sơn…
Giả thuyết thứ hai cho rằng có thể nơi đây xưa kia có sự xuất hiện của các sinh vật thông tuệ từ vũ trụ đến quả đất để giúp đỡ con người và chế tạo, xây cất những công trình mà chỉ có trình độ kỷ thuật cao mới có khả năng thực hiện được mà thôi
Tuy nhiên có thắc mắc nêu ra về hành tinh thứ 12 - Nếu hành tinh này hiện hữu trong Thái dương hệ thì tại sao nay không thấy? Lời giải thích của một số nhà khoa học không gian là hành tinh thứ 12 có quỹ đạo rất lớn nên phải mất một khoảng thời gian rất dài loài người mới thấy lại hành tinh này trong vùng không gian mà con người có thể quan sát được. Một lý giải khác là hành tinh này vì lý do nào đó đã bị hủy diệt nên ngày nay ta mới thấy vô số mảnh vở còn lưu lại ở giữa Mộc Tinh Jupiter và Hỏa tinh Mars
Nhà nghiên cứu Zecharia Sitchin đã dày công tìm hiểu khảo sát tất cả những gì mà các nhà khảo cổ và khoa học không gian đã thu thập được từ xứ cổ Sumarian và đã viết nên cuốn sách vô cùng hấp dẫn tựa đề: The 12th Planet (nhà xuất bản Avon Books – phát hành năm 1978 tại Hoa Kỳ)
Trong cuốn sách nhan đề: In Search of ancient gods do nhà nghiên cứu những sinh vật thông tuệ ngoài quả đất tên là Erich Von Daniken – Do nhà xuất bản Bantam Books – Hoa Kỳ - 1975 đã đề cập rất nhiều tới những sự kiện liên quan tới những vấn đề về những nền văn minh ngoài trái đất hay hình ảnh của những “người thông tuệ” trong vũ trụ đã từng đến hành tinh của loài người – và có lẽ những “người thông minh kỳ lạ” đó có những khả năng đặc biệt mà loài người trên quả đất không thể có nên mới gọi họ là “Những Thần Linh” hay “Đấng Thượng Đế Toàn Năng” Những hình ảnh từ thời cổ xưa tác giả sưu tập được khắp nơi trên thế giới cho thấy những hình tượng người có đôi cánh để bay hay những bộ quần áo may nối tiếp cùng với mủ trùm đầu làm ta liên tưởng tới các phi hành gia, những người du hành trong vũ trụ. Thời xa xôi cổ đại có đất nước nào đã chế tạo ra được phi thuyền, tàu vũ trụ để thám hiểm không gian? Có chăng chính là những “người thông tuệ sống ngoài quả đất” mới có khả năng ấy thôi. Tác giả cũng nêu câu hỏi ngay cả cho trường hợp người Ai Cập thời cổ đại thường có biểu tượng hình khối cầu với hai thanh kim loại hướng lên trời thấy trên đầu vua Ramesses II phải chăng là biểu tượng hay dụng cụ thông tin liên lạc với những gì ngoài không gian?
Trong một cái hang xưa cổ tại Brazil, các nhà thám hiểm khám phá ra những đường khắc, vẽ trên đá mô tả 9 hành tinh trong Thái dương hệ vào thời đại Đồ đá – Như vậy ai là người đã phát họa ra hình ảnh đó?
Về những hình ảnh liên quan tới mu trùm đầu của người du hành vũ trụ cũng được tìm thấy tại những vùng đất cổ xưa hàng nghìn năm tại Nhật, tại New Zealand
Riêng về những hình kỷ hà to lớn kẻ trên đất, vách núi hay giữa sa mạc từ thời đại cổ xưa phải chăng là những tín hiệu, chỉ dấu xác định mục tiêu cho tàu vũ trụ, phi thuyền của người ngoài quả đất đáp xuống quả đất? Đây cũng có thể là tín hiệu, thông điệp trao đổi của người từ quả đất hay ngoài quả đất (khi họ đáp xuống quả đất) với người ngoài hành tinh? Cho đến nay quả thật những thắc mắc này vẫn chưa hoàn toàn được trả lời thích đáng – Nhưng dù sao những nghiên cứu khám phá trên vẫn là những yếu tố quan trọng cho vấn đề nghiên cứu tìm hiểu về những nền văn minh ngoài quả đất. Hình dưới là những bức họa cổ xưa trên vách đá là hình ảnh liên quan tới người ngoài địa cầu..
 
VẤN ĐỀ ĐĨA BAY VÀ NGƯỜI HÀNH TINH
 
Khi tìm hiểu về vấn đề những người thông tuệ hay những nền văn minh ngoài quả đất, các nhà nghiên cứu đã không loại bỏ hai vấn đề vô cùng quan trọng – Đó là Đĩa bay và người hành tinh. 
Đối với các nhà khoa học và ngay cả giới thiên văn vấn đề vẫn đang còn trong vòng bí ẩn. Riêng đối với các siêu cường như Nga Mỹ thì phát ngôn viên của những quốc gia này lại thường úp mở, như chánh phủ Hoa Kỳ thường hay yên lặng khó hiểu cũng như Nga Sô trước những thập niên 80.
Tuy nhiên, vào tháng 9 năm 1989, hãng thông tấn xã TASS của Nga thình lình loan tin gây kinh ngạc mọi người khắp thế giới:
“Đĩa bay đã đổ bộ xuống vùng Voronezh với người hành tinh kỳ dị có 3 mắt và trang bị loại súng đặc biệt có khả năng làm biến mất vật bị bắn trúng”
Dân chúng Nga đã đua nhau sắp hàng mua báo và bàn tán xôn xao. Làm sao mà tại một quốc gia cộng sản thường giữ kín các tin tức quan trọng lại bỗng nhiên loan tin chấn động như thế được?
Theo một số lớn cư dân tại đây thì hôm đĩa bay xuất hiện họ thấy chung quanh như có sự chao đảo lạ lùng. Cư dân ở vùng ngoại ô Maxcơva còn quả quyết là họ đã thấy một khối lớn hình cái nắp son chớ không phải hình cái đĩa bay, ào đến vùng họ ở và từ từ hạ xuống đất.
Vật lạ khổng lồ này có những chân chống được duỗi ra để cắm xuống đất. Một số người kể rằng, lúc đầu họ có cảm giác kinh ngạc lạ lùng và sợ sệt nhưng sau đó, vì sự tò mò, họ cố nén sợ hãi và nhìn xem thử vật lạ đó là gì. Một lúc sau, có ba người to lớn dị thường chui ra khỏi vật lạ. Những người này có thân hình to lớn nhưng cái đầu lại rất nhỏ (theo các nhà khoa học thì có thể người hành tinh không to lớn như đã thấy mà là do bộ quần áo dùng cho họ để vượt không gian). Đi theo sau ba người hành tinh là một người máy có cấu tạo vô cùng kỳ dị. Mỗi lần điều khiển người máy, người hành tinh chỉ cần đưa tay chạm nhẹ vào ngực của người máy.
Những người hành tinh này khi xuống đất, họ chỉ đi quanh một vài vòng ở địa điểm mà họ đã đáp xuống, để một cái máy rất kỳ dị trên đất rồi lại leo vào vật lạ và tất cả bay vút lên cao. Một thoáng sau cái máy đặt trên đất ấy cũng biến luôn. Nhiều em bé đã mô tả lại khá giống nhau về những gì mà chúng đã thấy. Một phóng viên đài truyền hình Nga đã phỏng vấn các em này. Theo tin tức đài VOA của Hoa Kỳ (phát thanh sáng ngày 10 tháng 10 năm 1989) thì các khoa học gia Nga đã được phái ngay đến nơi đĩa bay đã đáp xuống để nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề.
Các nhà khoa học Nga đã quan sát kỹ các dấu vết còn lại trên mặt đất ở vùng Voronezh. Họ thấy những dấu lõm, lún sâu vào mặt đất. Họ xác nhận là đã có một cuộc đáp vội của một vật nặng lên vùng đất này. Những dấu vết còn in rõ nét. Dải đất bị cày lún sâu xuống và dài đến 20cm cùng với 4 chỗ lõm sâu có lẽ là do bốn chân chống của đĩa bay tạo nên. Gần đây các nhà khoa học còn bắt gặp hai cục đá rất lạ. Theo các nhà địa chất học thì đây là loại đá chưa bao giờ thấy có ở trên quả đất chúng ta đang sống.
 
NHỮNG CHỨNG TÍCH VỀ ĐĨA BAY VÀ NGƯỜI HÀNH TINH XUẤT HIỆN:
 
Từ cổ đại đến nay có rất nhiều người đã trông thấy đĩa bay và người hành tinh xuất hiện. Các tài liệu được ghi lại qua các bản khắc trên đá, trên vách núi, trên vùng đất cứng rộng lớn, hay qua các bản Chỉ Thảo, sách vở cổ xưa và những tài liệu thu thập nghiên cứu của các nhà khoa học hiện nay…
Đĩa bay và người hành tinh đã viếng quả đất từ thời đại hoang sơ. Trong những bản Thiên Hùng Ca của người Mayas và Incas thường đề cập đến những vị Thần Linh hay Thượng Đế thường đến với họ và giúp đỡ họ. Những mô tả rất lạ lùng như “Thượng Đế đến trong vầng lửa sáng và đứng trên mặt đất bằng những chân vững chắc. Ngài truyền những lời vang dội rất xa và mắt ngài sáng như mặt trời chiếu rọi…” Theo các nhà nghiên cứu về các chứng tích của người không gian thì đó chính là hình ảnh của những chiếc phi thuyền đến từ ngoài tầng không gian. Các chân vững chắc của Ngài là những chân của phi thuyền.
 
 
Tiếng nói của Ngài vang xa chính là tiếng động cơ náo động, Ngài đến trong vầng lửa sáng là phi thuyền khi di chuyển đã tống xuất ra sau lửa và khói. Còn mắt Thượng Đế sáng như mặt trời chiếu rọi là những ngọn đèn pha ở phi thuyền… Điều lý giải này thật ra chẳng có gì đáng gọi là gượng ép vì chính các nhà khảo cổ học, địa chất học, vật lý học và địa dư đã tìm thấy những vùng rộng bao la ở vùng Nam Mỹ Châu, những vùng này tuy ở nơi được xem là hoang giả nhưng lại phẳng lì như đã được cày cho phẳng và đặc biệt lớp đất ở đây lại rất cứng chắc như đã tráng lớp xi măng dầy. Các nhà địa chất đã thăm dò kỷ lớp bề mặt phẳng này và họ khẳng định rằng đây không phải là vùng đất tự nhiên mà là một công trình do bàn tay người thực hiện. Nếu xét về khả năng và vật liệu thì rõ ràng những thổ dân ở vùng này khó mà tự mình thực hiện một công trình như thế và nếu so với khả năng và kỷ thuật của con người ở thế kỷ 20 thì công trình này vẫn được xem là đã tận dụng kỷ thuật rất cao. Vậy do đâu mà ở vùng đất này lại có những mặt đất cứng, rộng lớn và bằng phẳng như thế? Ai đã kiến tạo, hay đã giúp thổ dân ở đó thực hiện? và công trình ấy được tạo nên có mục đích gì? Phải chăng đó là công trình của những người ngoài quả đất tạo nên để làm sân đáp cho tàu vũ trụ của họ? Biết đâu ngày xưa nơi đây đã có nhiều phi thuyền, đĩa bay của người vũ trụ đáp xuống để tìm hiểu đời sống ở quả địa cầu.
Trong các cổ thư của người Ai Cập cũng thường nhắc đến những vị thần linh xuất hiện mà sự mô tả thường trùng hợp với những hình ảnh được suy diễn từ những người hành tinh hay con tàu vũ trụ.
Ngay trong bộ Kinh thánh cũng không hiếm những lời mô tả có tính cách bóng bẩy về những người vũ trụ đến với con người ở quả đất. Con người cách đây khoảng mấy nghìn năm đã có lần trực diện với người vũ trụ và họ đã xem người vũ trụ như những vị thần linh, những thiên thần hay những vị thiên sứ. Những người vũ trụ này đã đến quả đất và đã cứu giúp loài người hơn là tàn hại hoặc có ý đồ xấu.
Trong Sáng Thế Ký (19;17) có đoạn như sau: “Vả, khi hai Thiên Sứ dẫn họ ra khỏi rồi, một trong hai vị nói rằng: “Hãy chạy trốn để cứu lấy mạng, đừng ngó lại đằng sau và cũng đừng dừng bước lại nơi nào ngoài đồng bằng…” Tại sao lại có lời dặn lạ lùng ấy của hai vị Thiên Sứ? Phải chăng họ là những người không gian, họ không muốn loài người tò mò muốn tìm hiểu lai lịch họ cũng như quan sát họ lúc đến và lúc đi, có thể họ dùng một phương tiện nào đó khi phát động để di chuyển sẽ gây tiếng nổ lớn và phun lửa tương tự như phi thuyền hiện nay của loài người.
Trong Nê-Phi (chương 17) có đoạn mô tả những Thiên Sứ trên trời giáng hạ xuống quả đất trong một đám lửa rực rỡ. Các nhà nghiên cứu về hiện tượng U.F.O cho rằng đó là hình ảnh của những vật lạ từ ngoài không gian đến, có thể là những đĩa bay và các người hành tinh bước xuống:
“Và khi đưa mắt lên nhìn, họ chợt thấy các tầng trời mở ra và các Thiên Sứ từ trời hạ xuống như đang ở giữa một đám lửa. Rồi các vị này đến bao quanh các trẻ nhỏ khiến chúng như “được bao vây giữa đám lửa và các Thiên Sứ này săn sóc chúng”. (Nê Phi 17:24)
Đoạn này trong Nê Phi đã là một ghi chú, mô tả rất rõ ràng, đã cho thấy những chứng nhân ở thời xưa cổ đã từng trông thấy đĩa bay và người hành tinh xuất hiện.
 
NHỮNG CUỘC TIẾP XÚC GIỮA NGƯỜI HÀNH TINH VỚI NGƯỜI QUẢ ĐẤT
 
Theo các tài liệu của giám đốc trung tâm nghiên cứu về vật lạ và sinh vật ngoài quả đất, tiến sĩ M. Milkhiler của Nga thì có rất nhiều trường hợp người quả đất đã tiếp xúc với người ngoài địa cầu. Tiến sĩ M. Milkhiler đã ghi lại trường hợp của một người lái xe cỏ Moscow ngày 28 tháng 7 năm 1980 đã tiếp xúc với người ngoài quả đất. Hôm ấy, anh ta đang lái xe đến làng Pôluchino, trong khi anh đang băng qua một vùng đồng vắng thì bỗng nhiên máy xe không còn hoạt động được nữa. Anh đang còn loay hoay trong xe thì bỗng nhiên có nhiều con người có vẻ khác lạ về hình dáng và cử chỉ tiến lại phía anh, họ ra dấu cho anh ra khỏi xe rồi gắn vào đầu anh một vòng tròn.
Cái vòng tròn hình vành khăn này nối liền với một cái hộp giống mặt bàn (trên đó có nhiều máy móc) bằng một sợi dây giống như dây điện mà con người thường dùng nhưng to lớn hơn nhiều. Nhờ cái vòng gắn ở đầu mà người tài xế này đã nghe và hiểu được những gì mà những người “kỳ dị” kia nói cũng như hỏi anh nhiều câu hỏi về quả đất, về đời sống của con người. Giờ đây bao nhiêu điều anh hầu như quên gần hết. Theo anh thì sau khi tiếp xúc khoảng 10 phút đồng hồ, những người này đã tháo cái vòng hình vành khăn trên đầu anh ra và một người trong nhóm đã dùng đôi mắt sâu và đen láy của họ nhìn chằm chằm vào mắt anh khiến anh như mê mẩn và khi bừng mắt ra anh như vừa trải qua một giấc mơ lạ lung. Theo tiến sĩ M. Milkhiler thì chính người hành tinh đã dùng thuật thôi mien để khiến anh tài xế này quên đi những gì xảy ra và không thể mô tả lại cho người khác về những gì liên quan đến người ngoài quả đất.
Tuy nhiên với sự khích lệ và hổ trợ của các chuyên viên nghiên cứu ở viện Óc Não tại Nga, anh tài xế này đã có thể tập trung tư tưởng để khả dĩ nhớ lại được một vài phần ngỏ hầu giúp các nhà nghiên cứu về vũ trụ và người hành tinh suy đoán được vài sự kiện liên quan.
Khoảng hai tháng sau, các nhà khoa học vũ trụ của Nga có được trong hồ sơ một sự kiện đáng quan tâm do người tài xế này nhớ lại như sau:
Theo anh thì lúc người hành tinh gắn cái vòng hình vành khăn lên đầu anh thì người hành tinh khác đặt cái hộp giống cái bàn lên mặt đất ở gần cạnh anh. Lúc đó anh thấy trên mặt hộp này có một tấm bản đồ gồm nhiều ngôi sao xếp thành hình bán nguyệt. Theo các nhà thiên văn học thì đây là hình ảnh của chòm sao Vela (Vela the Saih of the ship Argo). Như vậy những người hành tinh này sống tại một nơi nào đó thuộc chòm sao Vela. Chòm sao này ở cách địa cầu của chúng ta đến 100 năm ánh sáng.
Trường hợp thứ hai do hai vợ chồng Barney và Betti kể lại. Theo họ thì vào ngày 19-9 năm 1961 trong chuyến du lịch từ Canada trở về họ gặp những người ngoài quả đất chận lại lúc đó khoảng 22 giờ đêm. Những người hành tinh đã phân làm hai nhóm để dẫn hai vợ chồng mỗi người đi một nơi khác nhau. Năm 1964, một số nhà khoa học vũ trụ trong đó có giáo sư S. T. Fridmana (người Bỉ), bác sĩ Simon và tiến sĩ thiên văn học M. Fiser yêu cầu hai vợ chồng này tường thuật lại mọi điều mà họ đã gặp phải lúc họ bị người hành tinh bắt giữ trong hai tiếng đồng hồ. Ông Barney thì có vẻ đăm chiêu tư lự và luôn luôn lắc đầu bảo rằng ông chẳng còn nhớ gì hết ngoài hình ảnh ông thấy những người ngoài quả đất đến gần và dẫn ông đi, sau đó ông như mê man và khi tỉnh lại thì thấy mình đi bên cạnh hai người hành tinh dẫn đến gần chiếc xe hơi của ông cùng lúc, bà Betti cũng được hai người hành tinh dẫn đến bên xe hơi, họ gặp nhau có nói lời từ giã nhưng ông Barney cũng chẳng còn nhớ đến nội dung.
Chỉ có bà Betti là còn nhớ được khá nhiều sự kiện xảy ra. Bà kể với bác sĩ Simon như sau:
Lúc tôi được người hành tinh dẫn đến bên chiếc xe hơi, tôi thấy chồng tôi cũng được họ đưa tới.  Chồng tôi lúc đó có vẻ ngớ ngẩn như người mất hồn hoặc người đang ngái ngủ vậy. Trước đó tôi đã nói chuyện với người trưởng nhóm của con tàu vũ trụ (mà người  hành tinh đáp xuống nơi một bãi đất trống và bằng phẳng) rằng: Tôi nghĩ là tôi khó mà quên được những gì tôi đã gặp hôm nay với quý ông người trưởng nhóm cười, đáp lời tôi Bác sĩ Simon hỏi:
-Bà thấy con tàu vũ trụ của họ có gì lạ không?
-Con tàu thật lạ, tôi không thể nào mô tả được nhưng tôi thấy nó tròn hơn là có góc cạnh. Bên trong có rất nhiều máy móc.
-Họ có đưa bà vào trong con tàu không? 
-Có, tôi được dẫn vào bên trong khoang tàu vũ trụ, họ xem loại vải của cái áo tôi đang mặc, họ nhìn, họ sờ mặt trong cũng như mặt ngoài của lớp vải. Họ còn dùng một vật cứng và mỏng để cạo trên da thịt tôi. Họ muốn lấy một lớp da mỏng để quan sát và làm thí nghiệm gì đó. Tôi sợ nhất là khi một người hành tinh nắm một vật giống cái ống tiêm thuốc có mũi kim rất dài, tôi còn nhớ là dài khoảng 15cm và chuẩn bị đâm cái kim ấy vào người tôi. Tôi hoảng quá nên la lên: Ồ xin ông đừng chích kim ấy vào người tôi. Tôi sợ lắm, tôi đau lắm. Người trưởng nhóm thấy tôi hoảng sợ liền đến gần xoa tay vào nhau, cử chỉ giống như con người chúng ta thường làm để tỏ sự tự nhiên, không quan trọng. Ông ta nói như trấn an tôi: Không hề gì. Sau đó họ tiêm mũi kim dài ấy vào ngay lỗ rốn của tôi.Người trưởng nhóm nói cho tôi biết là việc chích kim ấy có mục đích là làm thí nghiệm xem tôi có mang thai không. Khi họ chích tôi vẫn tưởng là đau lắm nhưng thật sự chỉ có tê buốt thôi và sự kiện này và chỉ kéo dài trong chừng một vài giây đồng hồ.
-Sau đó họ làm gì nữa?
-Người trưởng nhóm đã nhìn thẳng vào mắt tôi và bảo rằng “Bà nên quên hết những gì đã xảy ra cho bà và cả chúng tôi nữa vì nhớ cũng chẳng ích lợi gì”
Khi đó chồng tôi được đưa tới để gặp tôi, chúng tôi được họ dẫn đến bên chiếc xe hơi. Tôi thấy chồng tôi có vẻ thẩn thờ, ngây dại như con trẻ, hình như ông chẳng còn biết những gì đã xảy ra cho chính ông và chính chúng tôi.
-Chúng tôi nghĩ rằng “họ” có khả năng làm giảm trí nhớ - Bác sĩ Simon nói.
Bà Betti còn mô tả bức bản đồ trong con tàu vũ trụ của người hành tinh. Về sau, nhờ phương pháp thôi mien, bà Betti đã nhớ lại chi tiết bản đồ và vẽ lại khó rõ rang. Và qua bức vẽ, các nhà thiên văn học, trong đó có nhà thiên văn M. Fich và giáo sư S. T. Fridman đã cho biết đó là hình ảnh của chòm sao Reticulum.
(Trong cuốn con người và trường sinh học, giáo sư Nguyễn Hoàng Phương cũng đã nhắc đến trong phần hiện tượng đĩa bay (UFO) và trường sinh học – NXB Đà Nẵng – 1989).
Một tài liệu khác cho biết ngày 7 tháng 8 năm 1965 tại Venezuela, nơi một vùng đồng quê, một bác sĩ và hai kỹ sư đã thấy một vật lạ hình đĩa đáp xuống khoảng đất trống gần đó một cách nhẹ nhàng không phát ra một tiếng động nào cả. Rồi từ dưới cái đĩa khổng lồ ấy có hai người hình dáng khá lạ lung bước ra và đi về phía họ điều kỳ dị là từ xa, họ vẫn nghe hai người này nói với họ những câu đầy vẻ thân thiện và trấn an họ như “các bạn hãy bình tĩnh, chúng tôi không làm gì các bạn đâu, đừng sợ hãi”. Về sau, các nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu hình đã cho rằng sở dĩ hai kỹ sư và bác sĩ ấy đã nghe được lời nói của người hành tinh từ xa chính là do sự “truyền thông tư tưởng của người hành tinh”. Người hành tinh đã truyền ý nghĩ mình vào các bộ não của hai kỹ sư và bác sĩ ấy khiến họ nghe được từ trong đầu mình.
Qua cuộc tiếp xúc đầy tính cách hòa bình này, các nhà nghiên cứu về vũ trụ đã ghi nhận được thêm nhiều sự kiện vô cùng quan trọng về những nền văn minh ngoài quả đất và về người hành tinh.
Sau đây là một số sự kiện đáng lưu tâm:
Phương tiện chuyển vận của người hành tinh thường là các con tàu vũ trụ có hình dạng cái đĩa mà loài người thường gọi là đĩa bay.
Nguyên liệu làm đĩa bay chuyển động chính là năng lượng trong vũ trụ như năng lượng mặt trời chẳng hạn.
-Thường người máy hay một số sinh vật nào đó đảm trách việc điều khiển tàu vũ trụ vượt không gian.
-Chuyến bay không liên tục mà phải dừng lại ở một vài nơi gọi là trạm không gian-ý nghĩ này giống ý nghĩ của các nhà vũ trụ học trên quả đất. 
-Trường hợp nếu có một thế giới có sinh vật nằm trong chòm sao Orion chẳng hạn thì khi người hành tinh ở đây muốn đến quả đất của loài người họ phải có trạm để dừng chân tạm trong một vùng nào đó thuộc hệ thống thái dương (thái dương hệ của chúng ta - gồm mặt trời và chín hành tinh).
-Trạm này đôi khi rất to lớn, từ đây sẽ có những con tàu vũ trụ nhỏ đến dừng chân rồi lại đi. Chính vì thế mà đôi khi trong thái dương hệ sẽ có những trạm của các hành tinh, nơi đây xuất phát  những chuyến bay của phi thuyền vũ trụ đi và về. Điều này làm phát sinh ra sự xuất hiện của nhiều vật lạ nơi bầu trời của quả đất loài người sinh sống (thường gọi là hiện tượng đĩa bay xuất hiện).
-Sự di chuyển của các con tàu vũ trụ của những người hành tinh đến quả đất thường được thực hiện từ thuở xa xưa, lúc nền văn minh trên quả đất chưa có gì và người hành tinh đã góp phần giúp đỡ qua nhiều mặt. Phải chăng nhờ đó mà có những nền văn minh phát triển mạnh một cách lạ lùng vào thời đại xa xưa, thời văn minh Atlantique, thời văn minh Ai cập, Mayas, Incas…
Từ năm 1965 đến nay, tại Nga Sô, một số họa sĩ đã chuyển đề tài vẽ tranh của họ và nhắm vào hình ảnh những người hành tinh. Tuy nhiên phần lớn các họa sĩ đều mô tả người hành tinh cũng có đầu, mặt mũi, tay chân tương tự như con người trên quả đất. Một số lớn họa sĩ cho biết là họ đã dựa vào lời mô tả của những người đ ã “có lần thấy được người hành tinh”.
Tại Hoa Kỳ, từ lâu, vấn đề người hành tinh và nền văn minh ngoài quả đất đã được nhiều nhà văn và nhà khoa học nói đến nhiều.
 
CÁC CƯỜNG QUỐC VÀ VẤN ĐỀ ĐĨA BAY CÙNG NGƯỜI HÀNH TINH
 
Theo các nhà nghiên cứu về hiện tượng vật lạ ngoài quả đất thì nước Nga, và các nước Đông Âu thường giữ bí mật vấn đề đĩa bay và người hành tinh rất chặt chẽ còn hơn cả chính phủ Hoa Kỳ. Tuy nhiên sau những cuộc khủng hoảng về kinh tế và nhất là về chính trị tại các nước Đông Âu thì vấn đề này hầu như được thả nổi. Tại Bungari sau cuộc đổi thay về chính trị, vấn đề đĩa bay được tiết lộ khá đầy đủ. Riêng tại Nam Tư nơi mà từ lâu có một vùng nguy hiểm cho bất cứ loại máy bay nào bay qua cũng giống như vùng Bermuda (tam giác quỷ). Vùng này chính là vùng biển Adriatic, được xem là mồ chon của máy bay và tàu thuyền. Trước đây báo chí thế giới chỉ loan truyền những tin tức chấn động xảy ra về những tai nạn của máy bay và tàu thuyền tại Bermuda mà không hề nhắc đến những tai nạn tương tợ đã xảy ra tại vùng biển Adriatic. Về các hồ sơ thuộc hiện tượng UFO tại Nam Tư thì theo công bố mới đây có gần hai mươi nghìn trường hợp đã xảy ra tại vùng trời đất nước này. Nga Sô là nước giữ bí mật nhất về vấn đề UFO.
Hiện nay, tính đến năm 1993, quả thật Nga cũng như Mỹ, chính quyền không muốn chính thức công bố tất cả những sự thật của vấn đề mặc dù hai quốc gia này càng ngày càng phát triển các chương trình nghiên cứu không gian trong đó còn chú trọng nhiều về việc thăm dò và tìm kiếm những người thông minh trong vũ trụ. Họ quy tụ vô số nhà khoa học chi phí rất lớn cho chương trình này, nhưng đồng thời càng giữ bí mật đến độ tuyệt đối cốt lõi của vấn đề. Trong khi đó trên thế giới thường nghe những khai báo tường trình của rất nhiều nhân chứng, những người đã trông thấy tận mắt và đôi khi còn tiếp xúc với những vật lạ đến từ không gian cùng với khoảng 200.000 hiện tượng liên quan đến sự xuất hiện của vật lạ từ không gian vào quả đất hay trên bầu trời cũng như những sự kiện liên hệ đến người ngoài quả đất, có khoảng 2000 vụ người quả đất chứng kiến tận mắt người vũ trụ và 900 vụ người quả đất tiếp xúc với người hành tinh.
Điều kỳ lạ là không riêng một đất nước nào, có nghĩa là hầu như mọi quốc gia điều đã không ít thì nhiều có sự xuất hiện của hiện tượng UFO (vật lạ không thể giải thích) trong bầu trời của quốc gia đó. Theo các nhà vũ trụ thì lý do đáng nêu lên có thể là những người thông tuệ trong vũ trụ muốn quan sát, nghiên cứu tìm hiểu các sinh vật trên quả đất về cách sinh sống cũng như nền văn minh. Có thể họ đã hiểu được phần nào sự phát triển mạnh mẽ về khoa học kỷ thuật của con người nhất là ở Hoa Kỳ, Âu Châu và Nga Sô vì thế không lạ gì tại những vùng trời này thường có nhiều vật lạ ngoài quả đất xuất hiện và học giả  Brad Steiger đã đưa ra những điểm trên bản đồ thế giới có sự xuất hiện của hiện tượng UFO. Nếu mô tả lại tất cả những gì mà các nhân chứng đã thấy về các vật lạ ngoài quả đất xuất hiện thì phải tóm tắt trong một cuốn sác cở 13 x 19 và gồm khoảng 1000 trang.
Điều đáng để ý là mặc dầu các vật lạ phần lớn có người điều khiển đến quả đất từ những hành tinh nào đó chứng tỏ họ có nền văn minh cao, là những người thông tuệ, nhưng vẫn có rất nhiều vụ sai hỏng máy móc nơi các con tàu vũ trụ của họ hoặc nhiều khi con tàu của họ gặp tai nạn, đâm sầm vào núi đá, trên mặt đất hay xuống nước.
Không thể bảo rằng sự hỏng máy hay tai nạn về tàu vũ trụ của người hành tinh là do người quả đất gây nên. (mặc dầu vậy, vẫn có nhiều sự kiện được biết là đôi khi người hành tinh bị người quả đất bắt hoặc bắn chết)? Ngược lại, các phi hành gia không gian đôi khi lại kể những sự kiện xảy ra ngoài ý muốn của họ tựa hồ như có một năng lực nào đó trong vũ trụ chống cản lại họ. Nhiều nhà vũ trụ làm việc ở ngoài phi thuyền và họ đã tiết lộ rằng họ thấy những vật lạ như đang theo dõi họ. Lúc quay phim ở mặt trăng, nhà du hành vũ trụ Mỹ đã báo cáo là có thấy một đĩa bay đang thăm dò. Một sự kiện mà từ lâu không gian Hoa Kỳ có ý che đậy sự thật là sau đó phi hành gia này đã bị khủng hoảng tinh thần và dần dần như mất trí nhớ.
Giả thuyết thứ nhất cho rằng có thể đĩa bay hay những vật lạ nào đó xuất hiện trong không gian (và đôi khi lại gặp tai nạn nổ tung hay đâm xuống đất) đều là những loại vũ khí, phi thuyền đặc biệt do chính cơ quan không gian Hoa Kỳ hay một siêu cường nào đó phát minh và đang trong vòng thí nghiệm?
Giả thuyết thứ hai cho rằng không thể nào trong vũ trụ bao la với cả tỉ tỉ vì sao lại chỉ có độc nhất một quả đất có người ở. Vì thế chắc chắn phải có những thế giới khác có sự sống và dĩ nhiên con người cũng không phải là loài sinh nhật duy nhất có trí thông minh và đời sống cao nhất trong vũ trụ. Do đó chắc chắn có những nền văn minh cao hơn và ở những nơi đó sẽ có những con người thông tuệ. Đã là những con người thông tuệ thì tự nhiên họ có xu hướng tìm kiếm những sự việc, hiện tượng ở những nơi khác trong vũ trụ cũng như họ sẽ có ý hướng muốn giới thiệu mình với các sinh vật khác trong vũ trụ. Đối với người thông minh ở các hành tinh khác họ luôn luôn nghĩ rằng họ không phải là duy nhất trong cái vô cùng của vũ trụ, do đó loài người sẽ không lạ gì khi thấy có sự xuất hiện của đĩa bay và người hành tinh đến quả đất.
Tuy nhiên mặc dù họ là người Thông Tuệ nhưng biết đâu họ không phải là những người có ý định tốt trong vấn đề tìm hiểu, giao lưu với những thế giới khác? Vì thế có thể sau một thời gian thăm dò, tìm hiểu, thấy có lợi, họ sẽ tấn công chúng ta và chắc chắn họ sẽ có nhiều ưu điểm và nhất là về sức mạnh của trí tuệ. Vì nếu không họ đã không đủ khả năng để vượt từ những cõi xa xăm trong vũ trụ để đến được quả đất.
Do đó, vấn đề công bố mọi sự kiện về đĩa bay và người hành tinh là điều mà chính phủ Hoa Kỳ không thể hoặc chưa có thể thực hiện vì dễ gây hoang mang, lo sợ, xáo trộn trong dân chúng. Các nhà tâm lý học nghiên cứu về phản ứng thuộc tâm thần của các dân tộc trên thế giới đã cho biết rằng người Á Châu và những người ở các ốc đảo chịu đựng giỏi, kiên trì nhẫn nại và bình tĩnh.Trái lại người Âu Mỹ,  thường dễ hốt hoảng, khó chịu đựng, nóng nảy, hấp tấp. Vì thế trong tình thế hiện nay việc công bố sự kiện đĩa bay và người hành tinh sẽ có hại hơn là có lợi. Giả thuyết thứ 3 cho rằng: Từ lâu phần lớn người dân Âu Mỹ thường tin tưởng trong vũ trụ chỉ có loài người là loài sinh vật thông minh nhất hiện diện. Con người do thượng đế sinh ra và quả đất này cũng là cõi giới duy nhất trong vũ trụ có sự sống (ngoại trừ cõi thiên đàng và địa ngục). Với sự tin tưởng như thế, nếu giả sử rằng đĩa bay và người hành tinh ngoài thế giới chúng ta được công bố thì sẽ gây hoang mang, xáo trộn biết bao về những tin tưởng từ trước của phần lớn người Âu Mỹ. Còn nếu xét về nền tảng sức mạnh cổ truyền của trái đất thì việc công bố, chứng nhận chắc chắn có những sinh vật từ những hành tinh khác có trí tuệ có nền văn minh phát triển cao thì một khi người bình thường biết được điều này, họ sẽ nghĩ sao về những gì họ đã biết từ trước. Khi đó những nền tảng sức mạnh về cổ truyền, cuộc sống trên trái đất sẽ đổi thay và suy giảm mạnh mẽ. Đó là chưa kể các hệ thống chính trị, pháp lý, tôn giáo, kinh tế, xã hội sẽ xáo trộn trong tâm trí của loài người vì thế sự công bố, xác nhận (nếu có) rằng đĩa bay và người hành tinh là có thật thì đó là một điều vô cùng quan trọng đáng cân nhắc.
Một số lớn nhà bác học Anh cho rằng có thể có nguy hiểm nếu chúng ta hấp tấp trả lời họ. Trái lại Viện sĩ G. Noan thuộc viện Hàn Lâm Extonia lại cho rằng: Chúng ta cần phải tiếp xúc với họ vì quả thật nếu họ phát tín hiệu tới chúng ta thì chứng tỏ họ có nền văn minh phát triển hơn chúng ta nhiều, không sớm thì muộn họ cũng sẽ phát hiện ra chúng ta mà thôi.
Theo các nhà nghiên cứu không gian thì dù cho các chính phủ của bất kỳ quốc gia nào cố tình che giấu không công bố sự thật về vấn đề đĩa bay và người hành tinh thì chung cuộc sự thật vẫn là sự thật.
Hiện nay, các nhà khoa học đã cùng nhau hội ý và đã thỏa thuận soạn thảo một bản tuyên ngôn về các nguyện tắc có liên quan đến sự liên lạc tiếp xúc với nền văn minh ngoài quả đất. Một khi đã chắc chắn có sự hiện diện của những người thông tuệ, thì vấn đề sẽ công bố cho Cộng Đồng Khoa Học Thế Giới, Cho Liên Hiệp Quốc rõ. Khi đó có lẽ Liên Hiệp Quốc được xem như đại diện của toàn thể nhân loại trên quả đất này đứng ra đón chào hay cử người đại diện để tiếp xúc những quý khách từ không gian tới…
Theo các tư liệu có được thì trên khắp thế giới đã có những người hành tinh. Sự kiện này không phải chỉ mới xuất hiện mới đây mà đã từ lâu. Như vào năm 1947, tại New Mexico nhiều người đã trông thấy một đĩa bay từ trong không gian đâm sầm xuống đất. Các mảnh vở của đĩa bay và có thể cả xác người hành tinh đã được đưa về trung tâm không gian Hoa Kỳ nghiên cứu. Theo tài liệu của Brad Steiger và Sherry Hansen Steiger thì có 4 xác người hành tinh chết trong đĩa bay đó. Mặc dầu cuộc họp báo được mở ra nhưng những lời tuyên bố của những nhân vật có thẩm quyền chỉ loanh quanh trong vấn đề là xác nhận có vật lạ hình đĩa từ không gian rơi xuống quả đất mà thôi.
Tuy nhiên những tay săn tin tài ba trong giới báo chí Hoa Kỳ vẫn tìm cách thăm dò những tin tức ở hậu trường và họ được biết: Sau khi sự kiện đĩa bay xuất hiện, đã có những phiên hợp của các nghành liên hệ tới tình báo, quân sự và an ninh Hoa Kỳ. Cuộc họp trước hoàn toàn giữ bí mật, và sự đính chính của tướng Roger Rawey là một quyết định sau buổi họp ấy. Mặc dầu bên ngoài, cơ quan đặc trách về không gian của Hoa Kỳ bác bỏ vật thể đó chỉ là khinh khí cầu nhưng những ban nghiên cứu vật lạ vẫn thành lập để điều tra cặn kẽ và suốt trong mấy mươi năm qua, cuộc điều tra vẫn còn tiếp diễn vì từ đó (1947) đến nay (1993) rất nhiều hiện tượng tương tự đã xảy ra. Đặc biệt sau sự kiện đĩa bay xuất hiện ở New Mexico vào năm 1947, thì 3 năm sau lại có 1 sự kiện khác, đó là vào năm 1950, một đĩa bay xuất hiện trong bầu trời trong khi hai phi công Hoa Kỳ đang lái máy bay trên vùng trời của tiểu bang Texas. Khi hai phi công này thấy thấy đĩa bay xuất hiện, họ liền có ý định đuổi theo nhưng khi họ vừa tăng tốc độ phi cơ thì đĩa bay đã quay ngoặc lại một góc 90 độ và rơi xuống đất. Về sau vấn đề được biết chi tiết hơn đó là sau khi đĩa bay rơi xuống đất, vì vật lạ có vẻ dị kỳ, bóc khói nên không ai dám lại gần. Sau đó một xe quân đội chở lính cùng với một sĩ quan đến nơi đĩa bay bị lâm nạn và tất cả những mảnh vụn của đĩa bay cũng như những gì ở bên trong đĩa bay đều được bí mật đưa về trung tâm nghiên cứu nhưng không loan báo một tin tức gì về sự kiện đã xảy ra.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao chính phủ Hoa Kỳ lại không muốn tiết lộ vấn đề đĩa bay và người hành tinh một cách trung thực? Ngay ở Nga Sô cũng vậy, chỉ mới những năm 1989 trở đi, báo chí Nga đã đăng những tin tức về đĩa bay và người hành tinh nhưng phát ngôn viên của chính phủ Hoa Kỳ thì hầu như cố tâm chận đứng sự phổ biến sự thật về vấn đề đĩa bay và người hành tinh.
Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để giải thích vì sao chính phủ Hoa Kỳ lại không muốn công bố sự thật về những gì thuộc hiện tượng đĩa bay và người ngoài quả đất:
Về mô tả thì đủ loại, người hành tinh khi thì được thấy rất to lớn (có lẽ do bộ áo quần bảo vệ khi di chuyển trong không gian) nhưng cũng có khi lại bé nhỏ, đôi khi không có đầu và chân tay như con người. Nếu có thì tay dài quá đầu gối, thân mình cao màu trắng hay vàng, cơ thể cao bốn thước hơn. Nếu có đầu thì đầu rất lớn có 3 mắt.
Về hình dạng và kích thước thì đĩa bay có rất nhiều dạng. Các tài liệu thu thập được tại các nước Nga, Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật…tổng hợp lại cho thấy có khoảng 40 dạng chính khác nhau, trong đó được phân loại thành 11 dạng tổng quát và phần lớn có hình thể tròn như hình đĩa hơn là các hình ê-líp (trái xoan), hình dài, nhọn hay tam giác.
Về vật chất cấu tạo nên các vật lạ, nhất là đĩa bay thường là những vật rất cứng mặc dầu nhìn qua và sờ lên giống như giấy bìa cứng. Những mảnh vụn từ những tai nạn của đĩa bay cho thấy điều đó. Các nhà khoa học đã nghiên cứu các mảnh vở của một đĩa bay bị tai nạn ở một vùng thuộc phía bắc Brazil vào năm 1957, họ thấy đĩa bay cấu tạo phần lớn bởi những chất đặc biệt không thấy ở quả đất (chỉ có 2 chất có ở mặt đất là strongsium và magnesium). Sự rắn chắc của đĩa bay được ghi lại trong một báo cáo Tại Trung Tâm Nghiên Cứu Vũ Trụ Nga như sau:
“…Một vật lạ có hình dạng hình đĩa đã từ trên trời đâm sầm xuống hồ Grenzali đang đóng băng và nằm im lìm tại đó ở độ sâu 2 thước rưỡi hơn. Sau hai ngày bỗng nhiên vật lạ chuyển động và bay vụt lên cao để tiến sâu vào vũ trụ. Theo tài liệu của giáo sư Nguyễn Hoàng Chương trình bày về vấn đề trường sinh học thì đĩa bay có khả năng triệt tiêu được trường điện từ và trường hấp dẫn nhờ một yếu tố nào đó khác với vật lý địa cầu vì thế khi bay, đĩa bay không cần theo đúng qui luật của sự bay mà các phi công lái máy bay ở quả đất thường tuyệt đối tuân theo, đĩa bay có thể đề rơi như một ngọn lá và có thể quay một góc 90 độ lúc đang bay với tốc độ nhanh nhất. Đĩa bay có một trường sinh học riêng phát ra từ người hành tinh có thể làm nhiễu loạn sự vận hành của cơ thể con người trên đất khi đến gần. Khi đĩa bay đến gần các máy móc đang hoạt động trên quả đất thì các máy móc này đều ngưng hoạt động, kể cả xe hơi và các đèn điện, bình ác quy vv…”
Một số tài liệu mật trong hồ sơ lưu trữ của Viện Nghiên Cứu Đĩa Bay và người Hành Tinh của Nga không hiểu do đâu đã lọt được ra ngoài và đã được báo UFO Universe của Mỹ đăng tải vào tháng 6 năm 1993 với đầy đủ chi tiết và cả hình ảnh. Theo tài liệu này thì chính cơ quan UFO của Nga đã cho công bố hình ảnh của một nạn nhân chết trong con tàu vũ trụ. Nạn nhân ấy là một “Người ngoài quả đất”.
Theo tài liệu không gian mà giáo sư Nguyễn Hoàng Phương thu nhập được thì có thể người hành tinh biết người quả đất muốn tìm hiểu nghiên cứu thăm dò và tận dụng mặt trăng nên họ có ý định ngăn chặn hay phá hoại cuộc thử nghiệm.
Báo sự thật của Nga đã phỏng vấn một nhân vật có vai vế tại Trung Tâm Không Gian Nga là A. Nicolaep về sự kiện nhà du hành vũ trụ Gagarin mất tích trong không gian, một sự kiện mà chính quyền Nga từ lâu cố ý ém nhẹm. Do đó khi trả lời cuộc phỏng vấn cho báo Sự Thật, A Nicolaep đã phát biểu như sau:
Đây là một vấn đề có tính cách bí mật quân sự. Sự kiện cho đến nay vẫn còn nằm trong vấn đề điều  tra về nguyên nhân nào phi hành gia Gagarin mất tích cũng như trước đó cũng đã xảy ra cho một số phi công. Nhưng rồi tại một tỉnh của nước Bungari, dân chúng ở đây bắt đầu bàn tán xôn xao khi nhà nữ tiên tri nổi danh của nước Xã Hội Chủ Nghĩa này là bà Vanga tự nhiên phát biểu điều mà bà bảo rằng: “Tôi đã nhìn được qua không gian và đã biết rằng nhà phi hành vũ trụ Gagarin đã bị bắt từ trong bầu khí quyển bởi một thế lực ngoài hành tinh chúng ta”. Bà Vanga là một nhà tiên tri nổi tiếng của Bungari. Khi tuyên bố câu này bà đã làm các nhà lãnh đạo Bungari cảm thấy áy náy vì sợ động tới bí mật của Nga.  Cho đến nay, thật sự số phận của Gagarin ra sao vẫn là điều còn trong vòng bí mật, tuy nhiên dân chúng Nga và các nước Đông Âu phần lớn điều tin rằng có thể Gagarin đã bị người ngoài địa cầu bắt giữ. Hay nói cách khác là ông chưa chết và đang sống ở một hành tinh khác hoặc giả ông bị bắt và được mang về hành tinh khác để những nhà thông thái ở đó nghiên cứu, tìm hiểu hoặc có thể ông đã chết vì không thích hợp với môi trường tại đó.
Họ có gương mặt rất giống người với đầy đủ tai mắt mũi miệng. Đặc biệt hai mắt rất dài, khi chết mắt cũng nhắm nghiền như người trên quả đất vậy. Về cơ thể có người rất cao lớn, vì mang găng tay và mặc bộ áo quần vũ trụ nên khó quan sát được bàn tay, cổ, bụng, chân….
Cũng có một số người hành tinh có thân hình thấp lùn đôi khi lạ kỳ vì đầu lớn, tóc chỉ vài sợi hay nhẵn thín,  mắt to, sâu và xếch. Mũi không có sống mũi, miệng ít khi mở ra. Da mặt màu vàng đất hay xanh lơ. Người hành tinh cũng có nam, nữ, và nữ cũng có bộ ngực nở hơn nam giới.
Một bức hình được công bố trong tài liệu the Ultimate Deception (by Commander X4 – retired military intelligence operative) và được báo UFO Universe 1993 đăng lại cho thấy một cơ thể kỳ dị bị thiêu cháy đến xám đen nhưng không bị bủn nát mà còn giữ nguyên hình dạng. Đó là dạng thể của một người có đầu rất lớn, có tay.
Vào năm 1947, một sự kiện tương tự đã gây xôn xao thế giới và ngay tại nước Mỹ là các nhân chứng đã trông thấy tận mắt một đĩa bay bị nổ tung trên bầu trời New Mexico vào đêm ngày 2 tháng 7 năm 1947 và những chứng tích rõ rang về đĩa bay cùng người hành tinh. Hai nhân chứng được chú ý nhất là Charles Berliz và Uliams Mures đã kể lại từng chi tiết vụ nổ và những gì họ đã thấy sau đó.
Trường hợp những con tàu vũ trụ của người ngoài quả đất mỗi khi bị tai nạn  thườngchỉ để lại dấu vết chỗ bị vỡ nát và những mảnh vụn của phi thuyền,  tuy nhiên hiếm thấy thân xác hay những mảnh của quần áo hoặc một vài phần của cơ thể người hành tinh. Mặc dầu vậy đôi khi cũng có những trường hợp người hành tinh bị chết và đã để lại thân xác không mang đi được. Câu hỏi được đặt ra là phải chăng đã có những con tàu vũ trụ từ không gian đến quả đất không có người điều khiển và có những tàu vũ trụ có người điều khiển?
Cũng cần biết qua rằng trước đây tại Hoa Kỳ có một trung tâm đặc biệt chuyên thu thập, tin tức về đĩa bay và người hành tinh, phân tích so sánh các sự kiện để mong với tính cách độc lập, vô tư họ có thể có được những sự thật rõ ràng về vấn đề và cũng từ đó họ sẽ yêu cầu chính phủ công bố rõ rang cho dân chúng và thế giới biết về những gì mà chính họ đã có được. Cơ quan này được gọi tắt là CAUS (Citizens Against UFO Secrecy) trụ sở đặt tại Washington DC.
Về phía chính phủ Hoa Kỳ, có hai việc phải làm: Một mặt phát triển cơ quan đặc biệt về UFO chuyên thu thập, thăm dò nghiên cứu các bằng chứng và hiện tượng về đĩa bay và người ngoài quả đất, một mặt càng giữ kín vấn đề càng nhiều càng tốt.
Theo một số phóng viên săn tin kỳ cựu của Hoa Kỳ thì càng ngày hình như chính phủ càng giữ bí mật nhiều hơn về vấn đề đĩa bay và người vũ trụ. Nhất là sau những phát giác đáng lưu ý về sự theo dõi của những vật lạ khi phi thuyền Apollo của Hoa Kỳ thực hiện các chuyến du hành, thám hiểm mặt trăng và không gian. Từ đó danh từ thánh Nicolai được chỉ thị cho các phi hành gia cũng như các phi công dùng để ám chỉ đĩa bay hay vật lạ xuất hiện. Theo đó thì mỗi khi thấy những vật lạ xuất hiện, họ chỉ có thể đưa tin rằng: Hiện đang có thánh Nicolai xuất hiện bên trái tôi.
 
QUAN NIỆM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ VẤN ĐỀ CÓ THẾ GIỚI KHÁC KHÔNG? 
Quan niệm của Thiên Chúa giáo và Tin Lành giáo:
Theo Thiên Chúa giáo thì Đức Chúa Trời là đấng toàn năng, ngài đã tạo dựng nên Trời Đất, con người và cả muôn loài trên quả đất - Điều này được mô tả trong sách Sáng Thế Kỷ. Tuy nhiên chỉ thấy nói tới sự tạo dựng sự sống trên quả đất mà thôi chớ không thấy nói tới các thế giới khác ngoài quả đất. Tuy nhiên ở đây cũng có đề cập tới Cõi Thiên Đàng và chốn Địa Ngục.
Tin lành giáo cũng cho rằng Đức Chúa Trời đã tạo ra vũ trụ, thế gian, muôn vật muôn loài.
Về Cõi Thiên Đàng thì đây là nước của Đức Chúa Trời. Đây là nơi lý tưởng dành cho những người có thiện tâm. Còn Cõi Địa Ngục thì theo Kinh Thánh: “Đây là nơi chẳng có việc để làm, chẳng có mưu kế, cũng chẳng có tri thức hay sự khôn ngoan” (truyền đạo 9:10) - Chữ Hỏa ngục hay Hồ lửa thường gặp trong Kinh thánh là nơi Luyện ngục dành riêng cho kẻ hung ác gian tham.
Quan niệm của Hồi Giáo về vũ trụ:
Theo kinh sách Hồi giái thì vũ trụ có 7 tầng Trời và 7 tầng Đất – do đấng Allah tạo nên. Trên 7 tầng Trời là một vùng ánh sáng diệu kỳ. Tiếp đến là những tầng khí nhẹ và trên đó là Thiên Đàng. Đối với quả đất thì dưới đất là 6 tầng Địa ngục.
Quan niệm vũ trụ của Phật Giáo:
Theo các tư liệu từ các kinh điển phật giáo thì vũ trụ là một đại thế giới bất sanh bất diệt, trong cái thế giới vĩ đại vô cùng ấy lại có vô số thế giới khác nữa, tất cả đều chuyển biến theo luật vô thường. Vũ trụ có khoảng ba nghìn tỷ thiên hà, mỗi thiên hà lại có hàng trăm tỷ ngân hà và trong ngân hà có hàng trăm tỷ sao. Quả đất chỉ là một điểm vô cùng nhỏ nằm trong hệ thống thái dương. Trong khi các nhà thiên văn và khoa học cho rằng vũ trụ có độ hơn hai trăm tỷ thiên hà và nghĩ rằng chỉ có một vũ trụ vì nó quá rộng lớn thì phật giáo lại cho biết không phải chỉ có một vũ trụ duy nhất như ta tưởng mà còn có những vũ trụ khác nữa và tất cả đều không có điểm khởi đầu cũng như không có điểm tận cùng. Năm 1967, nhà vật lý học nổi danh A. Sakharov đã cho biết rằng: “Không gian sâu thẳm có hai vũ trụ hay hơn và theo tôi thì trong đó có 2 vũ trụ với thành phần khác biệt, đối lập nhau”. Đó là sự vô thủy vô chung mọi vật chất, vật thể hiện diện trong vũ trụ đều được hình thành, phát triển, hao mòn, hư hại rồi tan rã mất đi theo luật thành, trụ, hoại, không, sự hủy hoại tan rã để rồi đưa đến một sự kết hợp khác, cứ thế tiếp diễn mãi. Ngay cả thái dương hệ của chúng ta và cả quả đất cũng đều theo quy luật đó. Cái định luật vô thường đã chi phối một cách vô tư và tự nhiên lên mọi vật chất từ nhỏ như một nguyên tử cho đến một khối vật thể khổng lồ như thiên hà.Tác giả Phụng Sơn khi trình bày về vấn đề này trong cuốn Đạo Phật qua nhận thức khoa học đã nêu lên một nhận định của nhà bác học nổi danh Stephen W. Hawling cuối thế kỷ 20 này như sau:
“Tình trạng biên cương của vũ trụ là không có biên giới. Vũ trụ hoàn toàn tự nó đầy đủ và không có cái gì ở ngoài vũ trụ ảnh hưởng đến nó. Vũ trụ không do ai tạo ra và hủy diệt được nó. Vũ trụ tự hiện hữu như thế thôi”.
Như vậy lời của nhà bác học Stephen W. Hawling cũng chỉ là lời lập lại lời của Đức Phật cách đây 25 thế kỷ.
Cũng theo quan niệm phật giáo, trong cái vũ trụ bao la ấy có vô số thế giới nhưng tùy theo duyên khởi, nhân duyên, và do sự liên hệ tương quan lẫn nhau nên phát sinh ra vô số loại sinh vật (do nhiều nhân và duyên khác nhau mà sinh ra hàng vạn quả khác biệt). Như thế trong vũ trụ bao la có hằng hà sa số thế giới, có thế giới đang thành hình, có thế giới đang phát triển, có thế giới đang suy tàn vì thế không phải mọi thế giới trong vũ trụ đều có sinh vật ở. Những con số Tam Thiên Đại Thiên thế giới trong kinh điển phật giáo đã nói lên cái số lượng lớn lao của những cõi giới trong vũ trụ. Những cõi giới này có chúng sanh hay muôn loài hiện hữu. Carl Sagan, tiến sĩ thiên văn học đã cho biết rằng trong dãy ngân hà của chúng ta có đến một triệu hành tinh. 
Vậy trong vũ trụ bao la có hàng tỉ thiên hà mà ngân hà có thể xem như là đơn vị của thiên hà thì đủ biết cả vũ trụ có bao nhiêu hành tinh. Theo xác suất thống kê thì chắc chắn sẽ phải có nhiều hành tinh tương tự như quả đất chúng ta và sự sống ở đó chắc chắn sẽ, đã thành hình. Cũng theo Carl Sagan thì nếu tính toàn thể vũ trụ, chắc chắn sẽ có nhiều hành tinh có đời sống và có nền văn minh đôi khi còn phát triển hơn cả nền văn minh loài người chúng ta. Cách đây khoảng 20 năm, các nhà khoa học Pháp cũng tính rằng ít nhất trong vũ trụ cũng có khoảng 3000 thế giới hay hành tinh có sự sống.
Theo phật giáo thì vạn vật có đủ màu sắc hình dáng nhưng lại là không gì cả, vì sao lại có lý luận nghịch lý ấy? Theo Bát Nhã Tâm Kinh thì: Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc có nghĩa rằng Có tức là Không, Không tức là Có. Ở đây ta nên hiểu chữ không là sự biến đổi để kết hợp thành cái khác hay nói cách khác khi thấy một vật, ta không nên quả quyết cho đó là thật, là trường cửu, vì có đó rồi không có. Cũng như khi không thấy vật cũng không cho đó là không có. Đó là chưa kể trường hợp khi nhìn vào một ly nước ta cho rằng chẳng có sinh vật nào trong đó cả nhưng nếu trích ra một giọt thôi, soi qua kính hiển vi ta sẽ thấy biết bao sinh vật sống trong đó. Do đó cái mà ta gọi là hình dạng, màu sắc mà ta thấy chỉ là biểu hiện của một thực tại khác ta không thấy mà thôi, nói khác đi là qua cái hình sắc đó còn có một cái thể khác nữa hay là một thực tại khác nữa. Vậy theo phật giáo, trong vũ trụ có 2 phần là thực thể và hiện tượng. Hiện tượng là dáng vẻ, màu sắc hình thể của mọi vật còn cái trạng thái thật của vật thể gọi là thực thể. Mỗi sự vật đều có 2 phần là thực thể và hiện tượng. Tất cả chỉ chung quy là một. Không có cái gì riêng biệt vì tất cả đều theo luật nhân duyên mà hiện hữu, chúng có tương quan liên hệ với nhau. Vì thế mà chúng ta không lạ gì có những giả thuyết cho rằng: Vào những thời đại xa xưa những người hành tinh có khuynh hướng đến quả đất để tìm hiểu và người quả đất luôn luôn hướng tầm mắt vào vũ trụ vì họ cảm thấy có sự liên lạc gần gủi nào đó giữa họ với vũ trụ bao la, tuy xa mà gần. Họ nghĩ rằng, trong cái vô cùng tận của vũ trụ chắc chắn phải có những thế giới khác, ngày xưa thì con người cho là những đấng thần linh có phép mầu vạn năng, ngày nay các nhà khoa học nghĩ rằng có thể có những sinh vật thông minh hiện hữu. Theo phật giáo đó là sự tương quan nhân duyên.
Mặc dầu như đã trình bày từ trước rằng thật sự theo phật giáo không thể gọi hữu hình hay vô hình đối với hình ảnh, màu sắc, sự vật khi xét theo cái căn nguyên của chúng. Tuy nhiên để dễ hiểu ta vẫn tạm chia ra những gì gọi là hữu hình và vô hình.
Đối với phật giáo thì trong vũ trụ có đến Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Con số ba nghìn thế giới ấy được người đời sau hiểu theo nhiều cách. Chữ Đại Thiên được các nhà thiên văn học cho là ám chỉ thiên hà, một khối lượng sao còn lớn hơn ngân hà nữa. Như vậy không thể nghĩ câu trên ám chỉ ba nghìn thế giới mà thôi. Cũng theo phật giáo thì trong vũ trụ bao la những thế giới ấy hiện hữn và có sự sống, sự sống ở mỗi thế giới không đồng loạt xuất hiện một lần mà khác thời điểm vì tùy theo nhân duyên. Đối với thế giới chúng ta đang sống thì khoảng cách thường rất xa đối với những thế giới khác, các thế giới cách nhau đôi khi từ vài chục vài trăm hay vài ngàn năm ánh sáng hoặc hơn nữa, vì thế mà khó trông thấy hay gặp gỡ nhau. Thế giới nào hiện hữu sự sống thì sinh vật ở đó được xem như hữu hình, được tạm gọi là hữu hình vì nếu sinh vật ấy đến được quả đất hay con người đến được nơi sinh vật ấy ở họ có thể thấy được, nắm được nhau, vì đó là những vật thể sinh động, cấu tạo bởi những nguyên tử ở gần kề nhau nghĩa là có điểm nối kết nguyên tử, phân tử chặt chẽ. Có thể lấy thí dụ nếu có người hành tinh đến địa cầu thì loài người có thể trông thấy họ rõ ràng từ hình dáng màu sắc và có thể sờ mó tiếp xúc họ. Như vậy, trong vũ trụ có nhiều thế giới với những vật thể, sinh vật hữu hình và ta có thể gọi đó là những cõi giới hữu hình. Quả đất con người đang sinh sống là một thế giới hữu hình hay cõi giới hữu hình. Nhưng không phải trong vũ trụ chỉ có những thế giới hữu hình mà thôi. Theo quan niệm  của phật giáo thì trong vũ trụ và ở sát ngay bên quả đất chúng ta đang sống có những cõi giới vô hình khác nữa. Từ ngàn xưa loài người bất cứ ở đâu, Đông cũng như Tây cũng đã tin rằng ngoài cõi giới hữu hình, còn có thế giới vô hình, cõi giới này thường được gọi là cõi âm phủ, âm ty hay địa ngục. Cõi giới này mắt người không thấy được, không đến được ngoại trừ những bậc chân tu hay những người có khả năng về huyền thuật hoặc ma thuật. Nhưng con người khi chết có thể đến và thấy được cõi giới này
Theo phật giáo, dù ở thế giới nài đều cùng chung trong một vũ trụ nên chịu chung quy luật của thành, trụ, hoại, không nghĩa là được phát sinh, phát triển, hủy hoại để biến chuyển thành một thể khác cứ thế luân lưu tiếp diễn không ngừng. Con người sống ở bất cứ thế giới nào trong vũ trụ cũng đều chịu tác động bởi luật nhân quả. Do tham, sân, si thúc đẩy nên con người tạo cho mình cái vòng luân hồi nghiệp quả. Con người sẽ tùy theo việc làm tốt hay xấu, thiện hay ác mà sau khi chết sẽ phải chuyển vào sáu cõi giới khác nhau (lục đạo)
Sáu cõi giới mà con người có thể đến là:
Cõi Trời, cõi A Tu La, cõi người, cõi súc sinh (loài vật) cõi Ngạ quỷ và cõi Địa ngục. Tùy theo nghiệp lực con người sẽ vào một trong sáu cõi và sẽ theo nghiệp báo mà mang một thân thể liên quan của nơi đó. Sáu cõi ấy được gọi là sáu cõi luân hồi.
Cõi Trời thường tỏa màu sáng, đó là cõi của chư thiên
Cõi A-tu-la tỏa màu xanh lá cây
Cõi Người phát hào quang màu vàng hơi đục
Cõi Súc sanh có màu xanh mờ
Cõi Ngạ Quỷ phát hào quang đỏ bầm
Cõi Địa ngục như đắm chìm trong màu khói u ám
Ánh sáng ở quả đất hay cõi giới con người chúng ta đang sống chỉ là ánh sáng của cõi giới sơ cấp so với cõi giới khác thanh cao hơn. Ở cấp cao hơn, loại ánh sáng sẽ rất siêu đẳng đó là ánh sáng siêu nhiên, con người rất khó thấy vì không còn biểu lộ ra ngoài như ánh sáng ở cõi trần.
Từ cõi giới loài người đang sống chuyển đến các cõi giới tuyệt cùng phải qua nhiều cõi giới có cường độ ánh sáng khác nhau. Đặc biệt ở cảnh giới cao nhất mà chúng ta thường nghe nhắc đến qua các tôn giáo như thiên đàng, cõi trời, cõi niết bàn, thượng giới, cõi thiên… có loại ánh sáng rất đặc biệt vì mọi vật đều được ánh sáng này rọi chiếu khắp nơi, không có bóng đen, bóng chiếu hay bóng tối. Khi đứng ở cõi này chẳng bao giờ có bóng đen do áng sáng chiếu tạo nên như thường thấy trên quả đất.
Như thế trong vũ trụ, theo quan niệm phật giáo, có vô số cõi giới.
Cõi A-tu-la (Asura): Cõi này gồm có hai cấp bậc khác nhau. Một cấp bậc cao gọi là đẳng cấp A-tu-la thượng và một cấp bậc thấp hơn gọi là đẳng cấp A-tu-la hạ người nào khi sống ở cõi trần có làm điều thiện nhưng vẫn tạo ác nghiệp tuy không quá nặng thì khi chết họ sẽ vào cõi giới A-tu-la hạ. Tại đây mọi vật tuy không tối tăm ảm đạm như địa ngục, vẫn có nhiều tiện nghi thuận lợi nhưng không được tự do như ở cõi giới cũng thuộc A-tu-la gọi là cõi A-tu-la thượng, nơi giành cho những người lúc sống đã làm nhiều điều lành nhưng không có phước báo lớn. Cõi A-tu-la thượng đẳng được coi như là một cõi giới an nhàn, tự do phóng khoáng. Chính cõi giới này thường tạo nên những hình ảnh hư hư thật thật mà loài người sống trên quả đất thường có thể trông thấy bất chợt. Nguyên nhân là những linh hồn của những con người lúc còn sống tạo được nghiệp quả tốt nhưng lòng vẫn còn tham luyến ích kỷ, sân si nên khi vào được cõi A-tu-la thượng vẫn còn ham muốn vật chất, nuối tiếc của cải vật chất, tình cảm, yêu thương gắn bó với người thân. Vì thế, do được tự do, linh hồn này có thể đi đây đi đó, đôi khi còn có được khả năng biến hình dạng người khác (khả năng này thực hiện được vì đã chuyển từ cõi giới trần thế đến cõi giới khác nơi mà cấu tạo, lực nối kết các nguyên tử và phân tử vật chất khác nhau).  Cũng có những linh hồn ở đẳng cấp A-tu-la hạ, nhờ năng lực nào đó thoát được sự ngăn chặn mà ra khỏi, họ sẽ không từ nan làm những hành động xấu để thỏa mãn long ước muốn chưa thỏa lúc còn sống. Họ có thể nhập vào một người đau bệnh, người yếu thần kinh, người ngồi đồng (medium) hay người hành nghề bói toán… Hiện tượng này loài người thường gọi là bị ma nhập. 
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì càng ngày thế giới của loài người càng đi vào con đường sai lạc bởi những con người thông minh nhưng đầy tham vọng, hiếu chiến. Hơn nữa con người sống ở cõi trần càng ngày càng bị vật chất tác động, ảnh hưởng vì thế không có đủ thời giờ để phát triển và rèn luyện năng lực tâm linh, trí tuệ. Do đó cái thân xác của họ dễ bị những sinh vật ở cõi giới A-tu-la hạ xâm nhập phá hoại.
Cõi người (Nara): Đối với chúng ta đây là cõi giới hữu hình rõ rệt và ở những thế giới khác trong vũ trụ có loài người sinh sống thì đó cũng gọi là cõi người. Đây là cõi giới của những sinh vật có đủ mọi khía cạnh của hỉ, nộ, ái, ố, lạc, vui, buồn, tức giận, yêu thương, vui sướng… Dù sao cõi này cũng được cởi mở giành cho những linh hồn không tàn ác đầu thai vào, nếu khi sống ở cõi người, được làm người là cả một ân huệ của vũ trụ, nếu con người biết sống an hòa, phát triển lòng từ ái thì về sau sẽ có thể đến được cõi tốt lành hơn.
Nhóm cõi giới tối tăm mê mờ gồm có:
Cõi súc sanh (Trisan): Đây là cõi giới của các loài sinh vật không có lý trí, những loài sinh vật chỉ biết sống theo bản năng, ngu si, hung dữ, chẳng có suy nghĩ. Đây là biến thân theo luật luân hồi của những kẻ mà lúc sống thường chỉ biết đến ham muốn xác thân. Theo tử kinh của Tây Tạng thì khi chết nếu hồn vào cõi súc sanh họ sẽ thấy những vùng đất trải dài trên đó có vô số hang sâu ăn sâu xuống lòng đất và những động đá cùng những hang lỗ.
Cõi ngạ quỷ (Preta): Đây là cõi giới vô hình gồm những chúng sanh luôn luôn chịu khổ đau, đói rách thiếu thốn mọi thứ. Đây là cõi giới của những kẻ mà lúc ở cõi thế ham muốn quá độ. Theo tử kinh của Tây Tạng thì nếu hồn phải sinh vào cõi ngạ quỷ thì khi đó hồn sẽ thấy những vùng đất hoang sơ, những khu rừng tối tăm chằng chịt dây leo hay những sình lầy với cây cối khẳng khiu, lởm chởm…
Cõi địa ngục (Hung): Đây là cõi giới vô hình đáng sợ, là nơi đến của nhữn kẻ gian ác vô luân khi còn ở cõi thế. Địa ngục là cõi giới hành xử rất chi li với những hình phạt tương xứng. Tại cõi địa ngục, sau khi đã trả xong nghiệp, kẻ thụ hình sẽ được chuyển đến cõi giới khác tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Theo tử kinh của Tây Tạng thì nếu hồn phải vào cõi này, họ sẽ thấy cảnh trí tối tăm với những căn nhà đen trắng lẫn lộn xây bên những hố sâu thăm thẳm.
Theo tử thư của Tây Tạng: xét về mặt luân hồi thì Niết Bàn là cõi ở bên kia tất cả các cõi, ở bên kia thiên đàng và các thế giới. Cõi Niết Bàn là nơi sự đau khổ hoàn toàn chấm dứt. Đó là nơi không còn sinh ra cũng chẳng còn chết đi.
Riêng về cõi Trời, khi xét khía cạnh này tưởng cũng nên tìm hiểu qua quan niệm vũ trụ được tìm thấy trong các kinh sách cổ của Phật giáo có những điểm rất chi tiết như sau:
Trong không gian rộng lớn vô cùng tận không chỉ có một vũ trụ mà gồm nhiều vũ trụ. Tuy nhiên mọi vũ trụ đều chịu chung quy luật của tự nhiên chớ không đặt dưới quyền cai trị, kiểm soát, khống chế hay điều khiển bởi một quyền lực từ Đấng Toàn Năng sáng tạo nào cả. Tất cả đều tuân theo quy luật thuộc về nghiệp lực, nhân quả. Đối với vũ trụ của chúng ta thì chữ Trời còn được hiểu không hoàn toàn là một cõi duy nhất vì có những cõi Trời khác cũng thanh cao đẹp đẽ, an lành nhưng cấp độ có phần khác biệt nhau.
Thí dụ: Bốn cõi chính được gọi là bốn Châu.
1. Đông Thắng Thần Châu: Đây là cõi thanh nhàn, bình thản, đầy ắp sự an vui vì thế cõi này không phải là cõi lý tưởng cho những ai muốn gạt bỏ mọi ràng buộc vật chất, không còn bám víu vào một cái gì khác. Khi vào được đây sẽ bị sự mê đắm cuốn hút nên khó có được cơ duyên để siêu linh thoát tử. Nơi đây thường tỏa ra màu sáng trắng.
2. Tây Ngưu Hóa Châu: Là cõi mà ở đó còn có sự kiện giống như cõi thế, nghĩa là phải tự nuôi sống lấy mình bằng cách chăn nuôi, trao đổi, buôn bán. Vì thế có thể do sự hoạt động nên cư dân ở đây xốc vát, mạnh khỏe. Gương mặt họ không giống như người ở Đông Thắng Thần Châu thường có hình lõm vào như hình bán nguyệt, trái lại tròn đầy bụ bẫm. Tuy nhiên vì còn phải tự nuôi sống nên dễ phát sinh lòng ham muốn, dễ phát triển cái ta, cái bản ngã của mình. Hơn nữa, Tây Ngưu Hóa Châu được xem như một cõi Trời đầy vật chất nên dễ phát sinh lòng ham muốn, tham lam, dễ phát sinh ý xấu, lòng gian tà. Màu sắc ở Châu này thường đỏ như mặt trời đang mọc.
3Nam Thiện Bộ Châu: Đây là nơi an lành dễ siêu thoát cho những ai vào được cõi này. Cảnh trí ở đây huy hoàng, rực rỡ với nhà cửa khang trang lấp lánh ánh hào quang mặc dầu vậy, nơi đây vẫn chưa dứt được sự lệ thuộc vào vật chất mặc dầu tinh thần đã tiến đến được cận điểm của sự thanh cao tốt lành. Theo tử thư Tây Tạng thì cõi này vì quá phong phú vật chất cũng như ngoại cảnh quyến rũ nên vẫn còn lẫn lộn tốt xấu bên trong. Nơi đây cư dân sống hiền hòa và hướng thượng, gương mặt thường bạnh ở xương hàm và màu sắc ở cõi giới này luôn luôn là màu xanh nhạt của da trời. Cũng tại châu này vì có phật pháp lưu hành nên nếu quyết tâm tu hành sẽ mau siêu thoát đến Niết Bàn.
4. Bắc Cu Lô Châu: (Uttaro Kuru): Đây là cõi trời đúng nghĩa. Cuộc sống an lạc thanh thản tự tại. Nơi đây có vô số rừng cây thảo mộc tốt tươi. Đủ loại cây trái cung cấp cho cư dân ở đây làm thức ăn. Nhiều tài liệu kinh sách phật giáo cho rằng Bắc Cu Lô Châu là cõi an bình sung sướng tuy nhiên vì không có phật pháp lưu hành nên dễ bị lầm lạc và trở về bản tính trần tục.
Theo tài liệu tìm thấy trong cuốn chân lý của tôn sư Minh Đăng Quang thì có mười tám trời Phạm Thiên phân làm bốn thiền:
Cõi Trời sơ thiền có Trời Phạm chúng, Trời Phạm phụ, Trời Đại phạm. Cõi Trời Nhị thiền có Trời Thiểu quang, Trời Vô lượng quang, Trời Quan âm. Cõi Trời Tam thiền có Trời Thiểu tinh, Trời Vô lượng tinh, Trời Biến tịnh. Cõi Trời Tứ thiền có chín cõi nhỏ hơn mỗi cõi có những vị tu chứng sinh sống.
Ba cõi giành cho phàm phu tu chứng ở là Trới Phước sanh, Trời Phước ái, Trời Quảng quả. Cõi Trời giành cho ngoại đạo tu chứng ở là Trời Vô tưởng. Năm cõi Trời giành cho Thánh nhơn chứng ở là: Trời Vô phiền, Trời Vô nhiệt, Trời Thiện kiến, Trời Thiện hiện, Trời Sắc cứu cánh. Sáu cõi Trời dục về cõi dục giới. Nơi đây có nam và nữ ở rất tự nhiên, an lành sung sướng nhưng không có sự tà dâm nên vượt cao hơn cõi người. Sáu cõi lục dục ấy là Trời Tứ Thiên vương, Trời Đao lợi, Trời Dạ ma, Trời Đâu suất, Trời Hóa lạc, Trời Tha hóa…
Như thế trong vũ trụ, theo quan niệm phật giáo, có vô số cõi giới. Thiên văn học cho chúng ta biết cả thái dương hệ “chúng ta” chỉ là một phần rất “nhỏ” trong giải ngân hà, galaxie (có tên gọi là Voie Lactée hay Milky Way), với triệu triệu ngôi sao! Mà trong vũ trụ, hay nói cách khác, trong không trung mênh mông mà ta không đoán được độ lớn hay biên giới ngoài, không phải thái dương hệ, mà ngoài ngân hà (sông bạc) của chúng ta, có vô số vô số ngân hà tương tự, với vô số vô số hệ thống như vòm bao quanh.
Như vậy, nói như các sách phật giáo có ba ngày thế giới lớn, cũng không sai sự thật. Về lối người phương đông dùng những từ về số, ba ngàn không hẳn là ba ngàn không hơn không kém, mà có nghĩa là vô số không đếm được.
Người phương đông đưa ra những từ như ba ngàn, ba vạn vv… để chuyển ý niệm: nhiều, vô cùng.
Về thế giới vô hình và hữu hình, học giả Cung Giũ Nguyên cũng đã có quan niệm như sau:
Ta chia thế giới ra hai: Thế giới hữu hình và thế giới vô hình, dựa nơi những giác quan nghèo nàn của ta nhận thấy. Lâu ngày rồi, chúng ta đi đến kết luận sai lầm: Cái gì không thấy là không có. Chỉ gần đây thôi, mới hơn ba trăm năm (kính hiển vi được phát minh váo năm 1656), người ta mới khám phá ra sự mù lòa của con người (và khám phá ra cả sự khoác lác của con người đã phân định cái có và không có theo con mắt tầm thường của mình), khám phá ra, ngoài thế giới thấy được của ta có một thế giới bất ngờ, bây giờ thấy được (mới phần nào thôi) và cũng hiện thực, thế giới vô cùng nhỏ, cũng đáng được khám phá như thế giới rộng lớn trên đầu chúng ta mà mặc dù những phi thuyền đã lên được một vài nơi, cũng chưa biết được gì bao nhiêu so với cái vũ trụ vô cùng lớn, cả hai làm cho chúng ta phải ngợp hay kinh hãi, và trước chúng ta ở thế kỷ 17, người danh tiếng Pascal đã ngợp rồi. Khi nhà vạn vật học người Hà Lan, Van Leeuwenhoek (1632-1723) lần đầu tiên ngắm một giọt nước qua kính hiển vi (ông tự làm lấy), ông tìm ra trong đó một thế giới chưa từng biết: Những hình thức nhoi nhúc, những sinh vật sống, cả một bầy thú vật không ngờ có mà dụng cụ mới, bổng làm cho quan sát được. Nhưng tư tưởng thời ấy chẳng biết làm gì với mớ sinh vật ấy, chẳng quan hệ gì với thế giới sinh vật đã có. Những vật mắt trần không nhận ra lại sống được, bơi lội, nhúc nhích, đó là chuyện lạ, chỉ để cho người ta bàn tán trong lúc trà dư tửu hậu. Người ta cũng đã phải bực mình vì sự hiện diện của các vật li ti ấy là một sự nhục mạ cho các sinh vật khác và trước tiên cho giống người, tự xem là thông minh và chúa tể của muôn loài.
Trước thời Pasteur, hiếm ai dám nghĩ tới vấn đề trong tự nhiên còn có những sinh vật vô cùng nhỏ mà mắt người không thấy được - Những loài vi sinh vật này có hình thù kỳ dị lẫn cách sống khác người - Kẻ đề xướng ra chắc chắn bị xem là kẻ điên, Pasteur khi nói tới vi trùng, vi sinh vật cũng một thời bị chế nhạo. Lý do là không ai thấy vi trùng hay vi khuẩn gì cả. Tôi không tin bất cứ điều gì nếu: “Tôi chưa thấy được tận mắt sự kiện đó” Đó là câu nói của biết bao người xưa nay - Vì thế mà vấn đề nêu ra: Có thế giới khác ngoài quả đất cũng ở vào trường hợp nói trên. Riêng đối với vấn đề: Những người hành tinh hay những sinh vật thông tuệ sống ngoài quả đất cũng là đề tài gây nhiều tranh luận - Dưới đây là một thắc mắc hầu như phổ biến xưa nay. Nếu có người hành tinh, thì với khoảng cách xa trong vũ trụ, làm sao họ có thể đến được quả đất chúng ta? dưới đây là một số lý giải của một số nhà thiên văn và khoa học cho thắc mắc vừa nêu trên:
 
TỪ KHOẢNG CÁCH VÔ TẬN, NGƯỜI HÀNH TINH ĐÃ ĐẾN QUẢ ĐẤT BẰNG CÁCH  NÀO?
 
Trong cái vũ trụ bao la diệu vợi, các hành tinh trong thái dương hệ của chúng ta được tạm coi là “gần gũi với nhau” nhưng cũng cách xa nhau bởi một khoảng cách vô cùng lớn lao. Theo các nhà thiên văn học thì cho đến nay thật sự với các cuộc thăm dò tìm hiểu của các phi thuyền không gian cũng như các thiên văn đài khổng lồ chưa có một khám phá nào khả dĩ kết luận chắc chắn các hành tinh trong thái dương hệ của chúng ta có sinh vật sống hay có một nền văn minh nào đó.
Tuy nhiên, trên quả đất vẫn thỉnh thoảng xuất hiện những vật lạ. Nếu quả thật những vật lạ đó không phải do loài người chế tạo và giả thử rằng đó là những phi thuyền phát xuất từ ngoài quả đất thì câu hỏi được đặt ra là có thể có người hành tinh và họ ở ngoài phạm vi thái dương hệ của chúng ta. Nếu vậy thì khoảng cách giữa họ và quả đất phải rất xa. Nếu họ đến gặp chúng ta có nghĩa rằng họ đã khởi hành cách đây hàng chục vạn năm rồi hay hơn nữa. Cho đến ngày nay con người vẫn còn dựa vào khoảng cách và tốc độ để nghi ngờ về những sự xuất hiện của người hành tinh. Tuy nhiên càng ngày khoa học càng khám phá ra được những vấn đề mới mẻ về hiện tượng chuyển di cũng như vấn đề đạt khoảng cách. Từ lâu vì con người sống trên quả đất và chịu những quy luật về sinh lý, sinh hóa, các hiện tượng vật lý quang học, vấn đề vận tốc… tất cả đều liên hệ tới những gì thuộc phạm vi quả đất và những gì con người nhắm tới, nghĩ tới đôi khi khó đạt được vì không thoát khỏi điều kiện của môi trường mình đang sống. Chẳng hạn trọng lực là sức hút của quả đất hay vấn đề đạt tốc độ cao khó thực hiện vì tới một tốc độ nào đó thì sự điều hòa tâm sinh lý của cơ thể sẽ không thể chịu đựng nổi. Ngược lại trong vũ trụ, có thể có những hành tinh nào có những điều kiện đặc biệt hơn, nên vấn đề chuyển di sẽ theo một tốc độ và phương cách nào đó khác hơn, nhanh hơn. Đó là chưa kể những hành tinh có nền văn minh phát triển.
Mới đây, các nhà khoa học đã lưu tâm đến sự kiện xảy ra tại Bungarie, nơi mà cô Theodora đã nói với các nhà báo về hiện tượng người hành tinh xuất hiện. Những người này đi nhanh hơn ánh sáng, họ đến và đi như tia chớp. Sự kiện xảy ra sau khi một vùng ở Bungarie tự nhiên rung chuyển, nhà cửa chao đảo như có động đất và lần lượt nhà này đến nhà kia, những sợi dây để chăng mắc quần áo sau vườn rung động mạnh như có ai cố tình giật cho đứt ra. Trong khi đó máy đo địa chấn không vẽ lên một đường chứng tỏ có sự động đất xảy ra.
Theo Theodora thì căn nhà cô cũng bị rung động từ ngoài sân, vườn lan dần vào trong nhà. Trong khi mọi người trong gia đình đều hốt hoảng thì Theodora thấy nhiều người bước vào nhà không cần mở khóa. Đó là những con người kỳ dị mặt mày cổ quái. Chỉ có một  người trông sạch sẽ sáng sủa và đẹp đẽ, người này trông có vẻ hiền lành. Theodora cho biết là những người này di chuyển rất nhanh và khi di chuyển tới đâu thì đất ở đó chuyển động đến đấy.
Các nhà khoa học cho rằng đây là một trong những hiện tượng siêu vật lý. Valentin Fomenko là nhà nghiên cứu các hiện tượng kỳ bí của vũ trụ đã cùng với một số nhà khoa học khác đến gặp Theodora để tìm hiểu thêm về hiện tượng lạ lung đã xảy ra và nhất là vấn đề di chuyển trong không gian, vấn đề cảm xạ học, cảm xạ từ xa. Theo Valentin thì Theodora có khả năng lớn lao về thần giao cách cảm. Theodora có khả năng đi vào trong một thế giới không gian bốn chiều khác hẳn với thế giới không gian mà chúng ta đang sống là thế giới không gian ba chiều (chiều cao, chiều dài và chiều rộng).
Giả thử rằng không gian ba chiều mà chúng ta đang sống được không gian bốn chiều (chiều thứ tư) bao trùm lấy thì hình ảnh ấy sẽ giải thích hay cho ta thấy ngay là nhờ đâu mà các sinh vật kỳ lạ trong không gian lại đến được quả đất chúng ta dù họ được xem như đã sống ở nơi rất xa ngoài thái dương hệ của chúng ta. Có nghĩa là nhờ không gian bốn chiều mà họ di chuyển rất nhanh rút ngắn không gian và thời gian.
Trở lại hình ảnh không gian ba chiều của chúng ta đang sống có không gian bốn chiều bao trùm. Trong không gian bốn chiều có những hành tinh nào đó có sinh vật hay người vũ trụ ở thì dù ta cho là giữa họ và chúng ta ở cách xa nhau đến vô cùng tận nhưng thật sự họ ở rất gần vì không gian của họ có đến bốn chiều. Do đó nếu họ muốn vượt qua khoảng cách thăm thẳm vô cùng tận ấy để đến quả đất chúng ta thì chỉ cần bước vào khe hở của chiều thứ tư nơi ngăn cách hai thế giới. Điều này sẽ dễ hiểu nếu chúng ta hãy thử tượng rằng các sinh vật hai chiều chỉ có thể vận chuyển và hoạt động trong mặt phẳng mà thôi, chúng không bước ra ngoài mặt phẳng của mình để tiến vào chiều thứ ba như chúng ta được vì thế những sinh vật hai chiều không biết gì về sinh vật ba chiều trừ khi sinh vật ba chiều gây một tác hại nào đó lên mặt phẳng hai chiều và ngay cả khi đó, sinh vật hai chiều cũng có thể không nghĩ và không biết đến một không gian ba chiều đang hiện hữu cũng như có sự hiện diện của một thế giới khác của những sinh vật khác ngoài chúng. Nhờ sự biểu hiện của không gian ba chiều mà sinh vật ở không gian hai chiều (mặt phẳng) đôi khi có thể đạt được những điều kỳ bí. Ví dụ như một sinh vật hai chiều muốn di chuyển từ M đến N, một khoảng rất xa và muốn tới đích phải cả chục năm nhưng nếu mặt phẳng ấy vì một lý do nào đó cong lại trong không gian ba chiều (vì bây giờ mặt phẳng không còn phẳng nửa, không chỉ có hai chiều dài rộng mà có them chiều cao) vì thế điểm M sẽ gần N và có khi gần trùng với N nữa. Lúc đó sinh vật mặt phẳng sẽ tới được đích trong nháy mắt.
Từ sự lý luận và tưởng tượng ấy, chúng ta hãy nghĩ đến một không gian bốn chiều để có thể suy ra sự bí ẩn ra sao mà loài người đã nghĩ đến. Nếu thế giới ba chiều, vì lý do nào đó, một tình cờ nào đó có sự cong đi để có thể một chiều nữa là chiều thứ bốn thì tình trạng tương tự như đã xảy ra ở thế giới hai chiều sẽ nảy sinh. Hiện tượng ở Bungari về những gì xảy ra và những gì cô bé Theodora kể lại cũng nằm trong các sự kiện vừa kể.
Cho đến nay vật lý hiện đại chỉ có khả năng xác định được tính chất của không gian ba chiều. Vật lý hiện đại không có những định đề này hay định đề khác để suy diễn các nguyên nhân bí ẩn trên. Bởi vì theo Cômarốp thì hiên nay tính chất ba chiều của không gian là nền tảng của tất cả các lý thuyết hiện tại chỉ có một lý thuyết vật lý tương lai tổng quát hơn mới có thể giải quyết được những vấn đề bí ẩn về không gian bốn chiều và chắc chắn không gian bốn chiều ấy là điều thực tế tự nhiên trong vũ trụ…
Từ ngàn xưa con người đã nghĩ đến những phương cách để đạt sự di chuyển nhanh và xa. Chuyện Tề Thiên Đại Thánh có tài cân đẩu vân chỉ lộn nhào một cái lên mây là đến một chỗ xa vạn dặm hơn. Đối với một số tôn giáo, vấn đề vượt khoảng cách không gian là chuyện tự nhiên của những Đấng Cứu Thế, những vị Bồ Tát, những bậc Thông Tuệ. Những vị Lạt Ma Tây Tạng cho biết rằng nhiều vị tu trì đến cấp cao, họ có thể để hồn rời khỏi xác thân để đến nhiều nơi, đến những thế giới khác hay cảnh giới khác. Dĩ nhiên sự vận hành sẽ rất nhanh. Một ký giả Pháp đã kể chuyện khi anh tiếp xúc được với một vị Lạt Ma, vị này đang nói về những cuộc sống và ý thức về cuộc sống của những người dân vùng ốc đảo xa xôi. Trong khi đang trình bày vấn đề thì vị Lạt Ma này bỗng ngừng nói và hai mắt nhắm nghiền, người trở thành bất động như một khối đá. Người ký giả kinh hoảng vì nghĩ rằng vị Lạt Ma bị trúng gió sắp té ngã nên vội vã lay gọi. Vị Lạt Ma liền mở mắt và nói như sau: Tôi đã đến một ốc đảo xa xôi Chatham đó là một ốc đảo của thổ dân dưới vùng Thái Bình Dương nơi đây đời sống hoàn toàn hòa với thiên nhiên. Đối với người văn minh thì đó là cuộc sống hoang dã nhưng dưới mắt kẻ tu hành thì đó là “cảnh bồng lai”. Ký giả này cho biết rằng: Vị Lạt Ma này chỉ nhắm mắt chưa đầy nửa phút mà đã vượt một khoảng cách dài từ thủ đô Lhasa của xứ Tây Tạng để đến một vùng ốc đảo thuộc New Zealand. Vị Lạt Ma đã dùng phép xuất hồn và đi với tốc độ rất nhanh. Vì sống trên quả đất, chịu điều kiện về môi trường, vật lý, cấu tạo…nên chỉ có những con người nào có một khả năng nào đó mới có thể đạt được tốc độ lớn. Tuy vậy xác thân họ cũng không thể nào di chuyển, họ chỉ dùng đến phần tâm thức, linh hồn, một thể khác của xác thân. Đối với những sinh vật ở những hành tinh khác có thể có những điều kiện thích hợp nào đó hoặc họ ở trong không gian bốn chiều chẳng hạn, họ có thể đạt được tốc độ nhanh hay dùng một phương cách nào đó rất tự nhiên trong không gian bốn chiều để đến nơi muốn đến mà không mất thời gian. Trong kinh phật giáo cũng thường nhắc đến năng lực đạt vận tốc nhanh của Như Lai, của Quán Thế Âm. Những vị này ở nơi tầng trời mà tại đó họ có thể thấy tất cả, quan sát tất cả vũ trụ, và có thể đến ngay nơi cần cứu độ trong nháy mắt. Ở cảnh giới này hoàn toàn khác xa cảnh giới trần gian hay nói theo quan niệm khoa học hiện nay thì cõi giới đó thuộc về cõi giới thứ tư hay có thể hơn nữa. Ta thử tưởng tượng hình ảnh một con kiến đang di chuyển trên tờ giấy trắng từ đầu này đến đầu kia tờ giấy. Trên tờ giấy có một viên kẹo. Nếu giả thử ta đưa tay nhón lấy viên kẹo thì con kiến sẽ kinh ngạc không hiểu sao viên kẹo biến mất. Hoặc nếu con kiến đang di chuyển trên mặt phẳng của tờ giấy (hai chiều) ta đặt một hạt đậu xuống tờ giấy, con kiến sẽ thấy tự nhiên từ đâu bỗng có một hạt đậu xuất hiện trước mặt rất nhanh. Cũng vậy, khi chúng ta ở trong không gian ba chiều thì những gì ở không gian bốn chiều sẽ làm ta kinh ngạc vì có nhiều khả năng hơn về không gian và thời gian.
Khi nói đến vấn đề không gian bốn chiều, thật sự nhiều người khó nhận thức được. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta đang sống trong cái thế giới của chúng ta theo không gian ba chiều nghĩa là chỉ có chiều dài, chiều sâu và chiều cao. Ta khó quan niệm được thế giới có không gian bốn chiều. Sự khó quan niệm, khó nhận thức được đó cũng giống như con mối đi trên một đường thẳng hoặc tới hoặc lui. Nó chẳng bao giờ nghĩ rằng ngoài chiều đó ra còn có chiều cao nữa. Theo nhà bác học lừng danh Albert Einstein thì khi một người di chuyển trong không gian với tốc độ ánh sáng trong khoảng thời gian một năm thì khi đó ở quả đất chúng ta thời gian tương ứng sẽ là 100 năm. Nhà bác học này đã bảo rằng sở dĩ có sự kiện lạ lùng đó là do thời gian giống như cái lò xo đã co, dãn (time dilatation). Thuyết này Albert Einstein đã đưa ra từ năm 1905 và lúc ấy đã làm ngạc nhiên giới khoa học vì vấn đề có vẻ hoang đường phi lý. 
Ngược dòng lịch sử, khoảng năm 1895 quan niệm thời gian co dãn cũng đã được một nhà viết sách giàu tưởng tượng tên là Wells nêu lên trong cuốn The Time Machine. Theo mô tả của tác giả thì khi di chuyển với tốc độ nhanh hơn tốc độ ánh sáng trong không gian thì con người bắt gặp được cả quá khứ và tương lai. Như vậy, thuyết thời gian co giãn, của nhà bác học Albert Einstein đã chứng minh rằng thời gian không phải luôn luôn bất biến. Trái lại, thời giant hay đổi và co dãn. Sự thay đổi co dãn của thời gian lệ thuộc vào vận tốc của vật đang chuyển động. Do đó sự liên quan mật thiết của một vật đối với không gian lúc đó sẽ có thêm một chiều khác nữa, chiều đó được gọi là chiều thứ tư và chiều thứ tư này chính là chiều thời gian. Vậy trong không gian bốn chiều ta có thể gọi tên bốn chiều đó là chiều dài, chiều cao, chiều sâu và chiều thời gian. Ngày nay, mặc dầu con người đang đạt tới trình độ khá cao nhung vẫn chưa hoàn toàn chế tạo được một cái máy có tốc độ siêu đẳng, vượt quá tốc độ ánh sáng. Tuy nhiên một dụng cụ khác đã được khai sinh giúp chứng minh cho học thuyết của Albert Einstein là đúng hay sai đó là chiếc đồng hồ đặt biệt có thể đo đạt rất chính xác thời gian chi ly đến cả một phần tỷ giây đồng hồ. Một cuộc thí nghiệm lịch sử được thực hiện vào năm 1971 tại trung tâm thí nghiệm không gian Hoa Kỳ. Họ dùng 10 chiếc đồng hồ loại đặc biệt trên để làm thí nghiệm. Trên một phản lực cơ siêu thanh bay với tốc độ 1000 km/giờ, người ta đặt lên đó 5 chiếc đồng hồ tinh vi vừa nói. Còn 5 chiếc đồng hồ còn lại để ngay ở phòng thí nghiệm trên mặt đất. Dĩ nhiên cả 10 chiếc đồng hồ đều điều chỉnh cùng một giờ giống nhau. Sau cuộc thí nghiệm, các nhà khoa học đã tính toán với sự hổ trợ của nhiều máy tính hiện đại đã đem đến kết quả là có sự khác biệt nhau rõ ràng về thời gian trong vũ trụ và thời gian trên quả đất. Các nhà khoa học tính được rằng:
Khi một phi thuyền có người điều khiển du hành vũ trụ với tốc độ 99.99% tốc độ ánh sáng sau 6 tháng vượt không gian thì thời gian này sẽ tương ứng với thời gian ở quả đất là 50 năm. Như thế, thuyết thời gian co dãn của Einstein đã giúp giải tỏa những thắc mắc tại sao những sinh vật thông tuệ nếu có lại có thể vượt đoạn đường vô tận từ không gian đến quả đất. Họ không sợ già hay họ không sợ trường hợp đường xa vạn dặm có thể khi đến đích thì họ đã chết.
 
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VÀ NHỮNG THẾ LỰC NGOÀI QUẢ ĐẤT
 
Qua 80 trang tài liệu thu gọn về vấn đề “Có thế giới khác không?” Chúng ta thấy nổi bậc 6 vấn đề cốt lõi mà con người trên quả đất cần lưu tâm khi nghiên cứu vũ trụ không gian.
Điều trước tiên chúng ta công nhận rằng chúng ta sống trên hành tinh này, một hành tinh không lẻ loi cô độc trong hệ thống thái dương có đủ mặt trời và một số hành tinh cùng với các hộ tinh. Thái dương hệ của chúng ta trông vĩ đại, lạ lung nhưng so với vũ trụ thì quả là nhỏ nhoi không đáng kể. Đó chỉ là những hạt bụi trong một sa mạc mù khơi và quả đất rõ ràng là không có gì cả nếu đem so sánh với cái bao la vô bờ bến của vũ trụ. Tuy nhiên, trên quả đất hay hành tinh ấy lại có sinh vật sống mà loài người chúng ta là sinh vật thượng đẳng vì có trí tuệ, có năng lực cũng như cấu tạo cơ thể tinh vi phức tạp. Chính vì lẽ đó mà loài người trước đây đã tự coi mình là sinh vật thông minh vượt bực mọi loài. Đồng thời với sự phát triển của con người về phương diện tri thức, họ khám phá vũ trụ và quan niệm đầu tiên cho rằng với sự thông minh và ở vị thế cao của con người, chắc hẳn quả đất phải là trung tâm và mọi vật thể trong vũ trụ, đều quay quanh quả đất: từ mặt trời, mặt trăng, cho đến các sao… Nhưng dần dần quan niệm ấy đã thay đổi khi những khám phá về sau cho thấy thái dương hệ chỉ là một đám bụi mờ nằm khiêm nhường bên bìa mép của dãy ngân hà to lớn chứa hàng tỉ vì sao và ngân hà cũng chỉ là đơn vị nhỏ trong cái khối vật thể vĩ đại của thiên hà. Nhưng trong vũ trụ bao la có vô số thiên hà…Cái vũ trụ to lớn vô bờ bến ấy từ lâu đã khiến loài người nghĩ đến vấn đề là vũ trụ do ai sinh ra?  Phải có một đấng toàn năng nào đó tạo nên vũ trụ và vô số vật thể trong đó. Từ lâu vấn đề thắc mắc và giải đáp chỉ được các nhà tôn giáo và các triết học quan tâm. Nhưng khi con người bước dần vào thế giới khoa học, chính các nhà khoa học cũng bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu để chứng minh vấn đề nhất là khi các lý thuyết lạ lung đầy hình ảnh tưởng tượng của nhà đại vật lý Albert Einstein được nêu ra. Thuyết tương đối của Einstein đã giải thích được một số lớn điều huyền bí của vũ trụ. Thuyết tương đối của Einstein tuy mới mẽ những vẫn có những điểm phù hợp với một vài khám phá trước đó. Đặc biệt nhất là kết quả của nghành khoa học không gian vũ trụ đã phát hiện được rằng: trước đây vũ trụ là một vật thể hình cầu nhỏ đến độ khó có sự tưởng tượng nào hơn lại là nơi tập trung của mọi thứ vật chất, năng lượng và cả không gian cũng như thời gian. Theo đó thì rõ ràng trong giai đoạn này chưa có sự xuất hiện của vật chất, không gian và thời gian. Tất cả đều bất động im lìm. Điều này làm phát sinh một thắc mắc là bên ngoài cái vật thể hình cầu cực vi đó có phải  là không gian không? Cái khối cực nhỏ do đâu mà có? Trước đó, khối nhỏ bé này là gì? Đó là những câu hỏi mà các nhà khoa học muốn giải đáp thỏa đáng. Theo các nhà khoa học thì vũ trụ từ một kích thước vô cùng nhỏ, siêu vi bỗng nhiên trương nở do sự bùng nổ của năng lượng tích chứa ứ đọng bên trong ở một nhiệt độ vô cùng lớn lao. Sự bùng nổ ghê gớm ấy làm bắn tung ra cả không gian, thời gian rồi những thành phần cơ bản của vật chất cũng như phản vật chất cũng được phát sinh từ đó. Thời gian đã được thành hình và mãi 4000.000.000 năm sau mới thành lập các thiên hà… Những diễn tiến được các nhà khoa học mô tả ở giai đoạn này tuy hợp lý nhưng thắc mắc vẫn còn về vấn đề trước đó là gì? Ai đã tạo ra những sự kiện vừa kể? Các nhà triết học, tôn giáo cho rằng Thượng Đế đã sáng tạo nên, phát sinh và phát triển vũ trụ đã thúc đẩy hiện tượng. Còn các nhà khoa học thì nhìn Thượng Đế với một ý nghĩa hoàn toàn khác, nhất là khi tân vật lý phát triển. Thượng Đế như vậy đã được hiểu như là một nguyên lý. Theo các nhà khoa học thì khoảng gần nửa thế kỷ tới đây nghĩa là khoảng giữa thế kỷ 21, con người có thể biết rõ được khởi thủy của vũ trụ như thế nào hay nói khác hơn là có đấng tạo hóa không?
Vấn đề thứ hai là sự sống xuất hiện trên quả đất không phải là duy nhất và siêu việt vì thật sự con người chưa tự mình đến được những nơi ngoài mặt trăng ngay trong thái dương hệ mà chỉ nhờ máy móc đem lại sự tiếp xúc. Các hành tinh trong thái dương hệ của chúng ta cũng không phải là thái dương hệ duy nhất trong vũ trụ vì trong ngân hà của chúng ta không thôi cũng đã có vô số mặt trời nghĩa là có vô số hành tinh. Thắc mắc được đặt ra là không lẽ với số lượng hành tinh nhiều như thế (chỉ riêng trong ngân hà của chúng ta thôi chứ chưa kể đến hàng tỉ ngân hà khác trong vũ trụ) lại chỉ có quả đất là hành tinh duy nhất có sự sống xuất hiện. Nếu bảo rằng quả đất có những điều kiện thích hợp cho sự phát sinh, phát triển của sự sống thì theo xác xuất thống kê chắc chắn phải có một số hành tinh nào đó trong vô số hành tinh trong vũ trụ cũng có những điều kiện thích hợp cho sự phát sinh sự sống.
Trong vũ trụ có hàng vạn hành tinh đang phát triển, có hành tinh đã trãi qua giai đoạn thành lập, có hành tinh đang ở giai đoạn lụi tàn… Tại đó cũng sẽ có những hành tinh đang có những sinh vật đang, đã hay vô cùng phát triển về nhiều mặt nhất là mặt phát triển sự sống.
Vấn đề thứ ba là sự sống không phải thể hiện ở những hình thức hay trang thái giống nhau mà có thể khác nhau, có thể có sự chênh lệch nào đó: thấp kém, hạ đẳng hay trung bình hoặc cao hơn. Theo một số nhà khoa học vật lý hiện đại thì ngoài thế giới và vũ trụ hữu hình còn có thế giới và vũ trụ vô hình nữa. Nhà vật lý A. Sakharov cho biết là ích nhất là phải có hai vũ trụ có thành phần xung đối nhau trái ngược nhau. Các  nhà bác học Pháp, trong đó có giáo sư Petit đã cho rằng: “Các vũ trụ sẽ trượt lên nhau theo sự di chuyển đối nghịch nhau.” Do đó trong vũ trụ sẽ có những dạng vật thể khác nhau. Từ lâu trong các tôn giáo thường nhắc đến những thế giới có tính cách siêu hình. Đó là những cõi giới vô hình mà những vật thể ở đây thường mắt người khó nhận biết. Nhà vật lý A. Sakharov khi đề cập đến vấn đề sự hiện hữu của người ngoài quả đất đã phát biểu  như sau: 
Chúng ta không loại trừ trường hợp có những vũ trụ khác. Ít nhất cũng phải có hai vũ trụ, những vũ trụ này trượt lên nhau hay xen kẽ nhau theo một theo một phương cách nào đó. Vì thế có thể có người hành tinh sống tại vũ trụ ấy. Hai vũ trụ không cách xa nhau quá vì thường chen lồng vào  nhau hay trượt lên nhau nên người hành tinh có thể đến quả đất không máy khó khăn một khi họ đã có được một nền văn minh phát triển nào đó. Riêng trong một vũ trụ, với vô số thiên hà, ngân hà, sao, thái dương hệ, hành tinh…các cõi giới cũng thường có sự khác biệt nhau. Ngày nay các nhà khoa học đã chứng minh được rằng có những vật thể tồn tại ở dạng khác biệt như mờ ảo, trong suốt, trắng đục do cấu tạo bởi những vật chất nào đó ở dạng cao hơn. Do đó trong vũ trụ chắc chắn có nhiều vật thể hữu hình hoặc vô hình hay mờ ảo. Khi chấp nhận trong vũ trụ không thể chỉ có quả đất là thế giới duy nhất có sinh vật, mà còn có những cõi giới có sự sống khác nữa thì chắc chắn cũng phải có những cõi giới hữu hình và cõi giới vô hình.
Vấn đề thứ tư là quan niệm có sự phát sinh, phát triển và tồn tại của những nền văn minh ngoài trái đất hiện nay không bị xem là quan niệm ngông cuồng, ngớ ngẩn nữa. Ngày xưa, khoảng thế kỷ thứ XIV, nhà triết học Bruno người Ý vì đã muốn chứng minh rằng ngoài quả đất còn có những thế giới khác có người ở nên đã bị đưa lên giàn hỏa. Về sau quan niệm ấy vẫn còn được xem là hoang tưởng vì vẫn có nhà khoa học tin rằng trong vũ trụ không gian không thể nào thuận lợi cho sự hình thành của các mầm sống bởi vô số tia vũ trụ, vô số thiên thạch luôn luôn chuyển động như đan mắt lưới và nhất là điều kiện nhiệt độ của vũ trụ sẽ làm triệt tiêu mầm sống. Ngày nay các nhà vũ trụ học đã chứng minh được rằng các tế bào sống đơn giản nhất có thể phát sinh, phát triển trong môi trường nhiệt độ thấp và bắt nguồn từ trong vũ trụ. Như vậy trong vũ trụ sự phát sinh chất sống có thể xảy ra một cách tự nhiên và điều đó không phải là sự ảo tưởng mơ hồ.
Vấn đề thứ năm là sự xuất hiện của đĩa bay và người hành tinh là một huyền thoại, giả tưởng hay hiện thực? Cho đến nay, dù lý luận thế nào, không ai đã tìm hiểu tường tận sự việc lại có thể coi vấn đề là không đáng quan tâm, vì đây là cả một vấn đề đáng được xem có tầm mức quan trọng không chỉ riêng cho một ai mà là tất cả nhân loại trong hiện tại cũng như tương lai. Không thể gọi sự xuất hiện của đĩa bay và người hành tinh là một huyền thoại. Vì chính các nhà khảo cứu lịch sử văn minh thế giới, các nhà địa chất, các nhà nghiên cứu vũ trụ, thiên văn đã dựa vào các huyền thoại để khám phá ra sự xuất  hiện của người hành tinh trong vũ trụ.
Theo A. Sakharov thì mỗi thế giới có những biên giới riêng chịu những quy luật riêng vì thế có thể không xảy ra sự lấn áp chiếm hữu lẫn nhau. Nhà vật lý học nổi danh này đã có ý trấn an con người đừng sợ vấn đề người hành tinh một khi đến được quả đất họ sẽ không từ nan xâm chiếm đất đai và có thể gây nguy hiểm cho con người về nhiều mặt.
Từ lâu  nhiều người cũng đã tưởng tượng đến một viễn ảnh đen tối về những cuộc đổ bộ của người hành tinh xuống địa cầu và những cuột thư hung dữ dội giữa đôi bên, giữa kẻ xâm lăng và người bị xâm lăng. Những cuốn phim sôi nổi khủng kiếp về cuộc đổ bộ của người Sao Hỏa lên quả đất và những cuộc tàn sát diễn ra.
Tất cả chỉ là chuyện giả tưởng nhưng nếu sẽ là sự thật ở tương lai thì nguy cơ quả thật không thể nào lường được.
Tuy nhiên nếu theo như lý luận của nhà vật lý A. Sakharov là sự thật cũng như một số lớn các nhà tâm lý học và triết học đã cho rằng nếu người ngoài quả đất đạt trình độ văn minh cao thì sự cảm thông, giao hảo sẽ được phát triển nhiều từ các lãnh vực này hơn là sự khiêu khích, xâm lấn và tàn ác… thì đó quả là điều thuận lợi cho loài người trên quả đất vô cùng.
Còn theo viện sĩ G. Naan thì nếu người ngoài quả đất đến viến chúng ta thì sẽ có ba trường hợp xảy ra:
Một là có sự quan tâm và hiểu biết lẫn nhau. Hai là có hiểu biết nhưng không quan tâm vì họ quá văn minh. Ba là có quan tâm nhưng lại suy tính thiệt hơn. Điều này có thể nguy hiểm vì có thể họ muốn tới ở tại trái đất hoặc tệ hơn là tàn hại hay… coi chúng ta như là thức ăn ngon không chừng.
Rõ ràng là con người vừa muốn tiếp xúc với “ người” ngoài trái đất, nhưng cũng không khỏi bồn chồn lo lắng. Tuy nhiên, với óc cầu tiến, càng ngày con người cảm thấy tự tin hơn và quyết tâm đưa bàn tay thân thiện ra để tìm bắt những bàn tay - nếu có – trong vũ trụ. Do đó, chắc chắn nhân loại đã sẵn sàng để đón nhận người ngoài quả đất trong sự niềm nở, an hòa vì ít ra, vì ít ra con người cũng đủ thông minh để biết được kẻ vượt đường xa từ vũ trụ không gian để đến quả đất không thể là kẻ tầm thường ngu muội.
Vấn đề thứ sáu là vấn đề thuộc về những thế lực vô hình. Trong các kinh sách tôn giáo thường nhắc đến những cõi giới vô hình và những lực lượng ở đó. Đối với những kinh sách phật giáo và nhất là với cổ thư Tây Tạng thì một số cõi giới vô hình có những thế lực đáng quan tâm.
Gọi là cõi giới vô hình vì những cõi giới này có cấu tạo hình thể không vững bền về những cầu nối giữa các nguyên tử, phân tử vì thế mà tầng số rung động khá nhanh khiến hình hài dạng thể không rõ ràng chợt ẩn chợt hiện lung linh như sương khói. Cõi giới A-tu-la là cõi giới mà tại đó có những linh hồn tốt (A-tu-la thượng đẳng) nhưng còn tham luyến, nuối tiếc nhiều vấn đề nơi cõi thế nên thường hay biến dạng thành người sống để có lại những giây phút của quá khứ. Cõi giới này cũng có rất nhiều linh hồn còn bị dầy vò, nghiệt ngã vì lòng ích kỷ, tham lam, sân si vẫn còn. Những người này ở đẳng cấp thấp trong cõi A-tu-la. Tuy họ không được tự do thanh nhàn nhưng vẫn tìm cách để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của cõi giới này, xâm nhập thân xác người trần để từ đó có thể thực hiện những ý định của mình và thường là những ý tưởng xấu như tìm cách tạo cho mình quyền lực, dọa nạt, bắt bớ những người yếu bóng vía hoặc lợi dụng những buổi cúng tế,cầu cơ, lên đồng hoặc người đang hấp hối để nhập vào tự xưng mình là vị này vị kia để thỏa mãn cái ham muốn về uy quyền, danh vị, danh xưng. Đôi khi nhờ ở cõi giới khác nên các tác động dựa vào hiện tượng vật lý ở cõi giới ấy khác lạ hay có khả năng vượt trội cõi trần, họ có thể làm những việc xấu xa, sai trái, nguy hiểm.
Theo Thánh kinh thì sở dĩ những con người bình thường lại có được những khả năng kỳ lạ vượt sự kiểm soát của trường vật lý quả đất thật sự một là do một tiên tri của Thiên chúa hoặc họ được satan truyền cho khả năng siêu việt của thế giới họ mà thôi. Thánh kinh đã tiên đoán rồi đây, không bao xa nữa, trên thế giới sẽ có những phát minh đượm nét  thần linh huyền bí hay ma thuật. Lúc đó thế giới loài người sẽ dễ bước dần vào giai đoạn tối tăm vì lúc đó - nếu loài người không sớm giác ngộ để hướng các phát minh dị thường ấy và lợi dụng nó để đạt điều tốt lành thì thế giới sẽ đi vào tối tăm, tàn lụi vì satan đã khống chế tất cả loài người…
Đối với các kinh sách phât giáo Tây Tạng cổ xưa, những sách bí truyền ở Ai Cập, Ấn Độ thì cho rằng có nhiều cõi giới vô hình, tại đó có thể có nhiều vong hồn mà bản năng ham muốn, giận hờn, gian ác, thù hận vẫn còn, họ muốn quay về cõi thế gian để tiếp tục sống.
Tuy nhiên, vấn đề vẫn phần nào tùy thuộc ở chúng ta, những con người sống trên quả đất, đã trãi qua bao nhiêu thiên tai, dịch hại, chiến tranh, đói khổ. Những kinh nghiệm ấy đã hun đúc cho con người sự kiên trì, chịu đựng và gầy dựng bồi đắp đạo đức. Chắc chắn những đức tính đó, hỗ trợ thêm bởi trí thông minh, óc sáng tạo, con người có thể kịp thời nhận định khám phá mọi hiện tượng phát sinh từ bất cứ đâu và chuẩn bị tiếp nhận, giao lưu theo kinh nghiệm và nhận thức của mình.
Các nhà khoa học sau thế kỷ thứ 20 đã bắt đầu quan tâm tới những lãnh vực mà trước đây họ cho là mơ hồ huyền bí, vô căn cứ, phản khoa học. Lãnh vực đáng lưu tâm nghiên cứu hiện nay là môn Cận Tâm Lý, bao gồm cả thần giao cách cảm, tiếp cận quảng cách xa và luôn cả cái gọi là Thế giới không nhìn thấy.
Con người hy vọng với đà tiến nhảy vọt của khoa học điện tử và khoa học không gian diễn tiến mạnh mẽ như hiện nay thì tương lai không xa con người sẽ biết rõ “Ai ngoài quả đất!” 


Tác giả bài viết: Đoàn Văn Thông
Nguồn tin: www.quangduc.com
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Thăm dò ý kiến

Nhờ đâu bạn biết đến website phatgiaoaluoi.com?

Sự giới thiệu của bạn bè

Tình cờ tìm gặp trên google

Tình cờ tìm gặp trên Yahoo search

Tình cờ tìm gặp trên facebook

Công cụ tìm kiếm khác

Giới thiệu

Chào mừng quý vị ghé thăm website http://phatgiaoaluoi.com

   GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HUYỆN A LƯỚI BAN TRỊ SỰ Văn phòng: Niệm Phật đường Sơn Nguyên, 32 Giải phóng A So, thị trấn A Lưới, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế Điện thoại: 090 501 2992 - Email: phatgiaoaluoi@gmail.com Website: www.phatgiaoaluoi.com LỜI NÓI ĐẦU Nam mô Bổn sư Thích...

Thống kê

  • Đang truy cập: 385
  • Khách viếng thăm: 378
  • Máy chủ tìm kiếm: 7
  • Hôm nay: 70821
  • Tháng hiện tại: 1788850
  • Tổng lượt truy cập: 90680423
Xem bản: Desktop | Mobile

Xin ghi rõ nguồn chính khi trích dẫn thông tin từ website này.

Ngày thành lập : 12-09-2012